Đóng vai người cháu kể lại truyện Bếp lửa lớp 9 hay nhất gồm dàn ý chi tiết và 20 bài văn mẫu đạt điểm cao được các giáo viên Cmm.edu.vn tuyển chọn sẽ giúp các em học sinh chuyển mình. Người cháu kể lại Bếp lửa thật ngắn gọn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Đề bài: Đóng vai người cháu kể lại bài thơ Bếp lửa
Bạn đang xem: đóng vai người cháu kể lại bài thơ bếp lửa
Đóng vai cháu kể lại bài thơ Bếp lửa lớp 9
Để đóng vai chú bộ đội kể lại bài thơ Bếp lửa vừa lòng, các bé cần sử dụng ngôi kể thứ nhất (tôi), theo trình tự của bài thơ để khắc họa tình cảm sâu nặng của người cháu với người bà kính yêu. kính!
3 Dàn ý Đóng vai người cháu kể lại bài thơ Bếp lửa một cách đầy đủ, chi tiết
Dàn ý dàn ý đóng vai người cháu kể lại bài Bếp lửa – Văn mẫu 1
1. Mở bài
Giới thiệu bản thân (nhân vật trong bài thơ)
2. Cơ thể
* Hình ảnh bếp lửa gợi bao kỉ niệm xúc động về bà
- Hình ảnh bếp lửa gần gũi, quen thuộc trong mỗi gian bếp Việt xưa
- Hình ảnh căn bếp gợi lên hình ảnh bàn tay nhẫn nại, khéo léo và chút tấm lòng của người bà nhóm lửa.
* kể lại kỉ niệm tuổi thơ sống với bà, bếp lửa gắn liền với bà
- Tuổi thơ đầy nghèo khó, khó khăn, vất vả
- Bóng ma rùng rợn của nạn đói năm 1945, bố mẹ bận việc chưa về
- Tôi ở với bà ngoại, được bà nuôi nấng, dạy dỗ nên phải tự lập, sớm phải lo cho bản thân.
* Suy ngẫm về cô ấy và cuộc sống của cô ấy
- Tôi yêu cô ấy khó khăn, tôi vào buổi sáng sớm
- Sự hy sinh của cô, sự quan tâm của cô dành cho mọi người
- Ngọn lửa cô thắp lên là ngọn lửa của tình yêu và niềm vui
* cảm xúc sau khi lớn lên và nỗi nhớ bà
- Con nay đã lớn, đã có đôi cánh để bay xa, niềm vui đang rộng mở phía trước
- Không bao giờ quên ngọn lửa, trái tim và tình yêu của cô, cô là người truyền lửa – Ngọn lửa sống, niềm tin cho thế hệ mai sau
3. Kết luận
Nêu cảm nghĩ của em về bà, về ngọn lửa bà thắp
Lập dàn ý cho em đóng vai cháu kể lại bài Bếp lửa – Văn mẫu 2
I. Giới thiệu:
Về em (Nhân vật trữ tình trong bài thơ)
II. Thân bài:
Nhân vật trữ tình kể theo lời kể của mình nhưng đảm bảo mạch cảm xúc của bài thơ là:
Bài thơ được mở đầu bằng hình ảnh bếp lửa, qua đó gợi lại những kỉ niệm tuổi thơ được sống bên bà suốt tám năm dài, hiện lên hình ảnh bà với sự quan tâm, chăm sóc, vất vả và tình yêu thương trìu mến. từ kí ức, giờ đây đứa cháu đã lớn biết suy nghĩ và hiểu hơn về cuộc đời của bà, về cuộc đời bình dị mà cao quý của bà. Cuối cùng, người cháu muốn gửi gắm tình cảm nhớ nhung của bà khi bà đi xa... Ví dụ tạo thành mạch riêng:
* Cách 1:
1 – Hình ảnh bếp lửa khơi dậy trong em một dòng kí ức và cảm xúc.
2 – hồi ức về những kỉ niệm tuổi thơ được sống bên bà và hình ảnh của bà gắn liền với hình ảnh bếp lửa.
3 – Suy ngẫm về cô ấy và cuộc sống của cô ấy.
4 – Cảm xúc của em khi lớn lên đi xa ngoại
* Cách 2:
1 – Hình ảnh bếp lửa hiện lên trong tâm trí tôi, quá khứ hiện về như thước phim quay chậm.
2 – Tuổi thơ tôi trải qua trong chiến tranh ác liệt đầy bom đạn.
3 – Tuổi thơ của tôi với biết bao niềm vui hạnh phúc được ở bên bà.
4 – Đóng vai cháu kể lại nội dung bài thơ Bếp Lửa – Bằng Việt. Yêu cầu sử dụng yếu tố nghị luận, độc thoại nội tâm – Từ kỉ niệm tuổi thơ với bà, em nhớ đến bà và hình ảnh bếp lửa.
5 – Giờ đây tôi đã trưởng thành nhưng tôi không bao giờ quên được hình ảnh cô gắn liền với hình ảnh bếp lửa.
III. Kết thúc:
Những mong ước, suy nghĩ của nhân vật trữ tình từ hình ảnh người bà và bếp lửa
Dàn ý đóng vai cháu kể lại bài Bếp lửa – Văn mẫu 3
Đây là một dàn ý được xây dựng với tình huống là người cháu đi du học nhớ về người bà và chiếc lò sưởi thân yêu.
I. Giới thiệu:
Tự giới thiệu (Nhân vật người cháu trong bài thơ)
Ví dụ: Tôi là sinh viên đang du học. Ở phương Tây, tuyết thường rơi trắng xóa vào buổi sáng. Cái lạnh ở đây luôn làm tôi nhớ đến ngọn lửa bà thổi trong sương sớm. Lò sưởi sáng leo lét, để lại bóng bà tôi trên vách bếp. Ôi, hình ảnh bếp lửa gắn liền với kỉ niệm với bà, hình ảnh ấy đã khắc sâu trong tâm trí em.
II. Thân bài:
Kể chuyện
1- Hình ảnh bếp lửa gợi lên trong em
Tuổi thơ tôi trải qua bên bà, cùng bà thắp lửa là cả một tuổi thơ với bao vất vả, thiếu thốn, gian khổ. Lên bốn tuổi, tôi đã quen với mùi khói. Năm 1945, nạn đói khủng khiếp xảy ra do chính sách thống trị của thực dân Pháp nên gia đình tôi cũng đói khổ, chết đói. Cha tôi lái xe ngựa. Ngôi làng chìm trong mùi khói, đến bây giờ sống mũi vẫn còn cay, nước mắt cứ ứa ra.
2- Tuổi thơ tôi phải sống trong chiến tranh đầy bom đạn khốc liệt.
Năm ấy giặc vào làng đốt nhà. Những người hàng xóm phải giúp bà và cháu gái tôi dựng một túp lều tranh để che mưa nắng cho bà. Bố mẹ bận đi làm chưa về, bà ngoại dặn nếu viết thư cho bố thì đừng nói với bố điều này điều kia, chỉ nói ở nhà bình yên để bố mẹ yên tâm. về công việc của họ. Ồ! Tôi hiểu tấm lòng của cô ấy và càng yêu cô ấy nhiều hơn.
3 – Kỉ niệm tuổi thơ với bà
Tám năm đằng đẵng, tôi ở bên nàng, sớm tối cùng nàng nhóm lửa. Cô kể cho chúng tôi nghe về những ngày lang thang ở Huế. Cô ấy đã dạy tôi những điều tốt đẹp. Cô là cô giáo đầu tiên trong đời tôi. Tôi lớn lên trong sự chăm sóc, dạy dỗ của bà. Mỗi khi nghe tiếng chim tu hú, lòng tôi lại trào lên nỗi nhớ thương, mong nhớ, muốn gần nàng, sợ xa nàng.
4 – Từ những kỉ niệm tuổi thơ với bà, em nghĩ về bà và hình ảnh bếp lửa.
Hình ảnh bà tôi với mái tóc bạc trắng, thân hình gầy guộc luôn song hành cùng bếp lửa hồng. Hình ảnh của cô luôn gắn liền với hình ảnh bếp lửa. Ngọn lửa do chính tay cô thắp lên tỏa hơi ấm khắp căn lều nhỏ và sưởi ấm lòng tôi, khơi dậy trong tôi bao cảm xúc của tuổi thơ. Bà là người phụ nữ Việt Nam vĩnh cửu với vẻ đẹp, sự kiên nhẫn và tình yêu thương. Bếp lửa là tình yêu thương ấm áp của bà, bếp lửa là bàn tay chăm sóc của bà, bếp lửa gắn liền với những gian khổ của cuộc đời bà. Mỗi ngày mẹ thắp lên ngọn lửa cũng là nguồn vui, nguồn sống, là chút yêu thương cho em và mọi người. Cô không chỉ là người thắp lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa, truyền niềm tin và sự sống cho tôi.
5- Bây giờ cháu đã trưởng thành.
Tôi có những niềm vui mới, những cảm giác mới, những bến bờ mới. Đất nước đã chắp cánh cho tôi bay vào bầu trời tri thức khoa học bao la nhưng tôi không bao giờ quên được hình ảnh của bà gắn liền với hình ảnh bếp lửa mà bà tôi ấp ủ mỗi sáng, mỗi chiều ở quê ngoại. .
III. Kết thúc:
Tôi ước được ở ngay bên cạnh cô ấy, ôm cô ấy thật chặt để tiếp thêm sức mạnh và niềm tin.
Ví dụ: Tuổi thơ cái gì gần gũi nhất, ai cũng có sức mạnh soi sáng, nâng đỡ con người trong suốt hành trình dài rộng của cuộc đời phải không các bạn? Tình yêu thương, tình nghĩa trong gia đình là cội nguồn của tình yêu quê hương, đất nước, con người.
Đóng vai cháu kể lại ngắn gọn câu chuyện Bếp Lửa
Ở một nơi xa, ngồi một mình trong căn phòng nhỏ, hình ảnh bếp lò thân thuộc ấm cúng từ thuở ấu thơ chợt hiện về trong tâm trí tôi. Hình ảnh bếp lửa quen thuộc trong góc bếp Việt Nam, hình ảnh bếp lửa cũng làm tôi nhớ đến bà.
Mỗi sáng bà dậy đốt lửa, ngọn lửa cháy lên để bắt đầu một ngày mới, ngọn lửa ấy vẫn là công sức sớm hôm của bà không kể nắng mưa. Nhớ lại lúc tôi mới bốn tuổi, mùi khói bếp lửa vẫn không thể nào quên, những năm đó là nạn đói của cả nước, cả cha và mẹ đều phải đi làm ăn, chỉ còn mình tôi. . ở nhà với cô ấy. Ngày xưa mắt tôi ngấn nước vì khói bếp, nhưng bây giờ sống mũi tôi cay cay mỗi khi nghĩ đến. Suốt tám năm chung sống với chị, tôi là người thắp lửa cùng chị, mùa nào gọi điện về tôi cũng kể cho chị nghe chuyện những ngày ở Huế. Giọng bà tha thiết như chính tình yêu của bà, bà lo cho tôi từng bữa ăn, cái mặc, dạy tôi học, dạy tôi làm việc, tôi thương bà vất vả nên tôi nghe theo mọi điều bà kể. Nhớ năm nào giặc vào làng đốt cả nhà, nhưng bà vẫn dặn tôi viết thư đừng kể lể linh tinh mà nói với gia đình rằng nhà cửa vẫn bình yên để bố mẹ yên tâm. công việc. Ngọn lửa mà bà tôi thắp lên không chỉ là ngọn lửa cháy bỏng mà còn là ngọn lửa của niềm tin và hy vọng. Suốt cuộc đời mấy mươi năm, ngày nào bà cũng dậy sớm nhóm lửa, nhờ bếp lửa mà tôi có tình yêu, có khoai lang và có cả tình cảm tuổi thơ. Giờ đã đi xa đến đất khách quê người, có nhiều niềm vui mới, nhiều tương lai, nhưng bếp lại không có, còn chị thì trong lòng luôn trăn trở “Mai mình vào bếp được không?”.
Cả cuộc đời này, tôi sẽ không bao giờ quên được hình ảnh bếp lửa, cũng như không thể quên được tình yêu thương lớn lao vô bờ bến mà suốt cuộc đời bà đã dành cho tôi.
Đóng vai cháu kể lại ngắn gọn câu chuyện Bếp Lửa
Đóng vai người cháu kể lại truyện Lò sưởi ngắn đạt điểm cao
Hôm nay bắt gặp hình ảnh một đám cháy, thật khó diễn tả cảm xúc, trạng thái và ý thức của tôi lúc đó. Tôi chỉ nhớ mình đã đứng chết lặng trước ngọn lửa ấy và hình ảnh người bà thân yêu thắp lửa cho tôi lại sống dậy trong tâm hồn tôi.
Bếp lửa có từ bao giờ, tôi cũng không rõ, chỉ biết là từ khi sinh ra, tôi đã quen với bếp nấu của bà. Ngày nắng cũng như ngày mưa bão, không ngày nào mẹ không nấu cơm, từ khi tôi lên bốn tuổi, mùi khói đã trở nên quen thuộc, ám ảnh quần áo và tâm hồn tôi. Giữa những năm 1945 sao nạn đói khủng khiếp quá, cha mẹ phải vất vả mưu sinh, chỉ còn hai bà cháu nương tựa nhau mà sống. Khói bếp lúc đó làm tôi chói cả mắt, nhưng bây giờ tôi lại khóc vì không ngửi được.
Tám năm dài đằng đẵng, tôi cùng nàng nhóm lửa, ngồi bên bếp lửa, nàng hay kể cho tôi nghe những ngày ở Huế. Lâu lắm rồi tôi mới nghe chị Tư kể lại, nhớ lại kỷ niệm sống với chị thật là đẹp, chị dạy tôi làm việc, chị bảo tôi học, chị lo cho tôi từng miếng ăn, giấc ngủ, thương chị hết mực. . Sáng sớm chỉ biết ngoan ngoãn nghe lời. Ngày xưa khổ lắm, người ơi, giặc đến đốt hết mái tranh, khó khăn lắm mới dựng lại được, để bố mẹ yên tâm công tác, mẹ vẫn dặn lòng không được nói đến. Ngày tháng trôi qua, sáng nào mẹ cũng thắp bếp, mẹ thắp lên ngọn lửa yêu thương, niềm tin và hy vọng về một tương lai tươi sáng, ấm no, đoàn tụ. Nhờ bếp lửa của bà tôi mới hiểu được nỗi niềm nắng mưa, dù thời thế có đổi thay mấy mươi năm bà vẫn giữ thói quen dậy sớm nhóm lửa. Từ bếp lửa ấy, có xôi có cơm, có khoai có khoai và có cả những tình cảm tuổi thơ. Bếp lửa của bà thật lạ lùng và thiêng liêng, để rồi giờ đây khi rời xa quê hương đến sống ở một vùng đất mới với nhiều điều tươi sáng, nhưng tôi vẫn không thể quên được bếp lửa và bà.
Khi lớn lên, chúng ta muốn trở lại bé nhỏ, trở về với những gì đơn giản và ngây thơ. Sẽ không có gì có thể diễn tả được tình yêu của tôi đối với cô ấy và đối với quê hương Việt Nam của tôi.
Đóng vai cháu kể lại câu chuyện Bếp Lửa – Mẫu 1
Mùa đông năm nào cũng vậy, ngồi bên lò sưởi nhìn ngọn lửa bập bùng, tôi lại nhớ đến ngọn lửa quen thuộc ở quê nhà. Ở Việt Nam có bếp lửa, có bà nhóm lửa hàng ngày, ngọn lửa nơi đất khách quê người này dù to và sáng đến đâu cũng không thể ấm áp và yêu thương như ngọn lửa của bà.
Sau những lần xa quê, em cảm nhận sâu sắc nỗi nhớ quê hương, gia đình và người bà kính yêu. Ai cũng có một quê hương và những kỷ niệm với nơi sinh ra và lớn lên ấy, với tôi điều tôi nhớ nhất bây giờ là bếp lửa còn đọng sương sớm, là bếp lò ấm áp của bà. Bà tôi - một người có đức hy sinh lớn lao, cả đời chăm lo cho con cái, tôi nhớ bà ngọn lửa, căn bếp đã khiến tôi quen mùi khói khi tôi mới lên bốn tuổi. Cái nghèo năm 1945 ấy suốt đời tôi không bao giờ quên, cha đi xe thồ chở xác tôi khô héo, cái đói quanh quẩn bên bếp lửa của bà, khói cay xè mắt mà giờ nghĩ lại, nó làm mũi tôi cay cay. .
Tám năm trời tôi và bà nhóm lửa, thường ngồi bên bếp nghe tiếng tu hú, không biết bà còn nhớ không, những chuyện bà kể khi tôi ở Huế. Vì bố mẹ bận công việc không về nên cuộc sống của tôi xoay quanh cô, cô cho tôi ăn, ngủ, học, dạy tôi từng điều nhỏ nhặt và cả những điều sâu xa, cao cả. Cũng như năm giặc đến đốt nhà tôi, việc trọng đại một mình bà gánh vác, không muốn con cháu lo lắng nên bảo tôi viết thư báo cho cha biết việc đó. vẫn an toàn ở nhà. Tu như thế nào, em có còn khóc hay không, hãy về bên em cho anh, cùng em sẻ chia gian khó, cùng em thắp lửa sớm chiều. Trong lòng cô luôn có ngọn lửa đã được ủ, đó là ngọn lửa của niềm tin yêu, vì nồi xôi thơm ngon, vì khoai lang khoai, chỉ cần ngọn lửa ấy thắp lên những tình cảm tuổi thơ trong lòng cô. . Tôi lại đứng dậy. Tiếc thay, tôi không còn được ở bên cạnh ngọn lửa thiêng liêng xa lạ ấy, chọn cách đi xa quê hương, rời xa bà ngoại, tôi thầm tiếc quãng thời gian được bà nâng niu, vuốt ve, yêu thương, cùng bà thắp lửa. bếp lửa.
Ở nơi phồn hoa nhưng xa lạ, tôi luôn đau đáu nỗi nhớ về bà, về tình yêu và sự hy sinh của cuộc đời bà. Vẫn là câu hỏi tôi rất muốn hỏi cô ấy "Ngày mai em vào bếp nhé?".
Đóng vai cháu kể lại câu chuyện Bếp Lửa – Mẫu 2
Lúc này tiết trời bắt đầu trở lại, từng cơn gió lạnh cứ ùa về, lạnh buốt đến từng thớ da. Những gia đình có điều kiện đã bắt đầu mua sắm áo bông, máy sưởi để giữ ấm trước những cơn gió mùa đông sắp tới. Tôi chợt nhớ đến bếp lò đơn sơ, bình dị của bà, mọi ký ức từ mơ hồ đến rõ ràng cứ ùa về như thác đổ. Đó là năm 1945 đen tối của cả dân tộc, hơn hai triệu đồng bào ta vì chính sách phi lý của đế quốc thực dân đã lâm vào cảnh đói khát rồi lìa bỏ cõi đời. Cái ăn thời đó là thứ xa xỉ, người ta có thể đánh đổi cả mạng sống để lấy dù chỉ là một miếng ăn.
Không nằm ngoài dòng chảy đó, gia đình tôi cũng bị cái đói cuốn theo, không cách nào lay chuyển, vùng vẫy được. Cỗ xe lay lắt của cha tôi kiếm sống qua một ngày cũng bị cái đói đeo đuổi. Những năm kháng chiến chống Pháp nổ ra, bố mẹ tôi cũng tham gia kháng chiến nên bà là ưu điểm duy nhất của tôi.
Ký ức của tôi gắn liền với hình ảnh người bà tất bật, với những khoảnh khắc bếp lửa khiến tôi ứa nước mắt. Tám năm dài đằng đẵng mùi khói bếp lửa làm người ta khóc, mùi khói đó chưa bao giờ trở thành một phần ký ức của tôi, cứ theo tôi trên con đường chính. tường.
Tôi vẫn nhớ như in dáng vẻ của một bà ngoại dù tuổi đã xế chiều nhưng vẫn cố gắng hết sức chăm sóc tôi không thua gì bạn bè. Bao nhiêu nắng mưa, những nếp nhăn ngày càng hằn sâu, những nếp nhăn đó in dấu thời gian và cũng là minh chứng cho một đời lam lũ vất vả của con cháu bà. Bà lo cho tôi từng bữa ăn, giấc ngủ, dù vất vả nhưng bà luôn mong con cháu được sống bình yên. Năm ấy cái đói, cái đói, cơn bão đói nghèo đã cuốn bao cuộc đời con người đi xa, nhưng mẹ vẫn một tay nuôi em khôn lớn.
Trong những năm tháng gian khổ ấy, cha mẹ mải miết chạy theo kháng chiến, trong căn nhà nhỏ đơn sơ, bình dị, có hai ông bà vẫn vui vẻ nương tựa nhau vượt qua những tháng ngày dài. Mẹ dạy tôi phải làm mọi việc để tôi trưởng thành, từ nhỏ đến lớn, sau những lời dạy dỗ, dạy dỗ của mẹ, một đứa trẻ như tôi đã làm được rất nhanh. Cô còn là một cô giáo dạy chữ cho tôi, từng con chữ, từng phép tính mà cô dạy đều in sâu vào lòng tôi như một bài học vỡ lòng. Càng lớn lên, tôi càng yêu bà tha thiết, bà đã hết lòng chăm sóc tôi trong những ngày dài vắng bóng cha mẹ. Nhờ có sự bao dung của cô ấy mà tôi chưa bao giờ cảm thấy mình thiếu thốn tình cảm. yêu.
Rồi làng nhỏ yên bình của tôi cũng không thoát khỏi sự tàn bạo của quân thù. Năm ấy giặc kéo vào đốt từng căn nhà nhỏ lợp mái tranh, biến thành tro bụi. Tài sản của những người nông dân chất phác cả đời chắt chiu, dành dụm cũng hóa thành hư vô. Xóm nhỏ của tôi xưa đã nghèo nay còn thê lương hơn, tôi cùng bà đứng nhìn ngôi nhà chứa đựng cả tuổi thơ tôi đang lụi tàn dưới ngọn lửa hung tàn.
Càng căm phẫn, căm phẫn bọn cướp nước kia, tôi càng đau đáu trước hoàn cảnh của hai bà cháu. Hình ảnh ngọn lửa thiêu rụi hàng chục ngôi nhà lợp tôn tồi tàn trước tiếng thở than của những mảnh đời bất hạnh ngày ấy vẫn còn hiện hữu trong tiềm thức của tôi, khiến tôi sợ hãi cho đến tận những năm tháng trưởng thành.
Ngôi nhà cũ được thay thế bằng túp lều tranh tạm bợ, hàng xóm tứ phương cũng trở về, tôi thấy trong dáng vẻ của mỗi người đều mang trong mình nét trầm tư. Tôi có suy nghĩ sẽ viết một lá thư kể về hoàn cảnh hiện tại, mong bố mẹ sớm trở về quê hương.
Như đọc được suy nghĩ của tôi, chị bảo tôi viết thư đừng kể. Dù đã mất tất cả nhưng bà vẫn một lòng vì con cháu, bà dặn tôi dù thế nào cũng phải giữ gìn bình yên cho gia đình, tôi và bà đều đang sống tốt. Cô sợ cha lo lắng cho gia đình, cô muốn cha dốc lòng phụng dưỡng quê hương.
Sớm tối, bếp lửa trong túp lều tranh tạm bợ vẫn đỏ rực những ngọn lửa hồng. Chị thắp lên ngọn lửa cũng như thắp lại niềm tin vào hòa bình. Sáng, trưa, chiều, tối, những ngọn lửa hồng không bao giờ tắt. Bếp lửa bình dị nhưng chứa đựng trong đó tình làng sâu nặng, mặn nồng tình quân dân và chứa đựng cả một khoảng trời tươi đẹp của tuổi thơ tôi. Cuộc sống của chị là thế, đến chiều tối chị vẫn phải gồng gánh biết bao nhiêu nắng mưa. Tôi đã quen với hình ảnh người bà thức dậy khi cả thế giới còn say ngủ để giữ cho ngọn lửa luôn cháy ấm.
Bếp lửa luộc củ khoai, củ sắn tuy mộc mạc nhưng đã nuôi tôi khôn lớn. Cũng nhờ bếp lửa ấy mà tình làng nghĩa xóm của những người nông dân chất phác, mộc mạc cũng thêm trọn vẹn. Từ những ngày chiến tranh đau thương, chia nhau từng củ khoai, củ sắn cho đến khi đất nước được hòa bình, xây dựng, dân tộc ta mới được nếm đủ hương vị cơm nếp, gạo thơm.
Tôi còn nhớ những ngày dân ta coi cơm là xa xỉ, ăn vội củ sắn rồi chạy lo việc đồng áng. Những củ khoai được nhét vội vào tay người lính trong những ngày hành quân gian khổ đã tiếp thêm tình cảm dân tộc cho những người anh hùng bảo vệ từng tấc đất của Tổ quốc.
Ngọn lửa âm ỉ ấy chứa đựng tất cả những gì đẹp đẽ nhất, tinh túy nhất và cũng chứa đựng cả những tình cảm của tuổi thơ tôi. Vui, buồn, nắng, mưa đều được thể hiện bằng hình ảnh người bà, bằng hình ảnh bếp lửa chan chứa yêu thương.
Điều cô nhen nhóm không chỉ là ngọn lửa mà còn là niềm vui, tình yêu thương chân thành dành cho con và những người xung quanh. Ngọn lửa ấy chưa bao giờ bị dập tắt, bởi luôn được cô tiếp lửa là nguồn niềm tin cho tương lai tươi sáng này. Bếp lửa tuy đơn sơ nhưng trong lòng em thật đẹp và thiêng liêng..
Bây giờ guồng quay cuộc sống cứ thế trôi, tôi đang sống trong một xã hội đầy đủ tiện nghi, có thể là bếp gas, bếp từ nhưng hình ảnh bếp lửa trong tôi vẫn thiêng liêng lắm. Đất nước ta thoát khỏi gông cùm nô lệ, tiếp tục phát triển từng ngày, những ngày đau thương lùi xa, niềm vui tràn ngập trăm phương.
Tuy nhiên, một câu hỏi vẫn hiện lên trong đầu tôi: “Sắp rồi, bật bếp lên nhé?” Tôi muốn những giá trị đẹp đẽ của tuổi thơ không mãi là thứ vô tri vô giác trong ký ức mà phải luôn tồn tại và được lưu truyền đến muôn đời.
Đóng vai người cháu kể chuyện Bếp Lửa – Mẫu 3
Mỗi lần đi qua những cánh đồng của đất nước Nga rộng lớn bao la, tôi lại bồi hồi nhớ về quê hương Việt Nam thân yêu. Nhất là vào những ngày tuyết rơi trắng xóa, thời tiết lạnh thấu xương, tôi rùng mình trong chiếc áo khoác dày ngồi bên lò sưởi. Nhưng rồi sao tôi thấy lò sưởi thân quen quá! Ngọn lửa lạnh lẽo làm tôi nhớ đến cái bếp của bà tôi!
Tôi sinh ra trong thời loạn lạc, thời đất nước bị chia đôi, thời dân tộc bị gót giày quân thù giày xéo. Gia đình tôi vốn có truyền thống yêu nước nên từ nhỏ, bố mẹ tôi đã luôn xa rời tôi để phục vụ đất nước nơi chiến khu đầy gian khổ và nguy hiểm. Vì vậy, tôi đã sống với cô ấy từ những ngày thơ ấu của tôi. Em với cô có những kỉ niệm khó quên, đặc biệt là hình ảnh cô luôn gắn liền với ngọn lửa ấm áp ấy. Mẹ dậy sớm nhóm lửa trong sương sớm, thắp lên ngọn lửa vì tình mẫu tử ấm áp nồng nàn. Nghĩ đến bếp lửa, tôi thương bà da diết, sự vất vả của bà làm sao tôi quên được.
Tôi còn nhớ năm tôi vừa tròn bốn tuổi, năm đó là năm 1945 - năm đói kém. Tôi đã chứng kiến nạn đói len lỏi vào từng gia đình, gây ra cái chết thương tâm của hai triệu người, một cái chết dường như tượng trưng cho tội ác chiến tranh, một thời đau khổ của dân tộc Việt Nam. ta. Cha tôi lái cỗ xe khô khốc với con ngựa gầy guộc. Còn tôi, tôi vẫn ở bên bà, bà đốt bếp cho làn khói xua đi mùi chết chóc. Nghĩ lại đến giờ sống mũi vẫn cay cay! Cay vì mùi khói! Cay đắng cho một thời tang thương, đói rét, chết chóc của dân tộc ta!
Tám năm tôi cùng bà phụ bếp, bà bao bọc, che chở cho tôi, dạy tôi làm việc, lo cho tôi ăn học. Tôi lớn lên trong sự nuôi nấng, dạy dỗ của cô. Nhớ mùa hè ấy, tu hú ngoài cánh đồng xa, tiếng tu hú nghe tha thiết làm sao! Tiếng tu hú như khơi dậy nỗi nhớ nhung, sự nhớ nhung da diết trong tôi. Cô thường kể cho tôi nghe những ngày ở Huế, tôi luôn hào hứng và thích thú với những câu chuyện của cô, từng giọng nói ấm áp của cô đã chạm vào trái tim tôi, khiến tôi biết cảm thông và yêu thương người khác nhiều hơn. Nghĩ đến đây, tôi liền trách con tu hú sao không ở với mẹ mà suốt ngày đi khóc ngoài đồng xa?
Cuộc sống tưởng như trôi qua bình yên trong mắt một đứa trẻ như tôi, nhưng không ngờ năm ấy lại là năm giặc ngoại xâm ác liệt, chúng đã để lại một kỷ niệm in đậm trong tâm trí tôi mãi mãi. Chúng đốt làng, thiêu rụi, hình ảnh làng quê trở lại lầm lũi, may thay bà tôi sống có tình có nghĩa, được sự giúp đỡ của bà con lối xóm, bà đã dựng lại túp lều tranh trên đống tro tàn. Lúc đó, tôi sợ đến mức bật khóc và nói với cô ấy: “Con muốn viết một lá thư cho bố mẹ để bố có thể về nhà chăm sóc và bảo vệ cháu gái của con”. Tuy nhiên, bà vẫn kiên định, vẫn tin tưởng vào cuộc đấu tranh của dân tộc. Bà nói với tôi tin rằng: “Bố đang ở chiến khu, còn chuyện của bố, nếu con viết thư thì đừng nói cho mẹ biết, chỉ nói nhà yên bề gia thất!”. Rồi sớm chiều, bà lại thắp lên ngọn lửa, thắp lại tình yêu, thắp lại niềm tin bền bỉ vào cuộc sống, vào tương lai của dân tộc.
Ngày qua ngày, bếp lửa vẫn bập bùng, khơi dậy tình yêu ngọt ngào của sắn, dậy mùi thơm phức của nồi xôi mới để cùng chung niềm vui, đánh thức những xúc cảm tuổi thơ. Ôi thật kỳ lạ và thiêng liêng – ngọn lửa! Cái bếp lạ lùng bởi nó cháy trong mọi hoàn cảnh, dù nắng hay mưa, đói rét hay chiến tranh, nó vẫn cháy. Nó không bao giờ tắt vì bất kỳ lý do gì.
Ngọn lửa thiêng liêng, huyền bí, nó gắn liền với hình ảnh người bà khả kính của tôi, nó còn là hình ảnh của niềm hi vọng chiến thắng của dân tộc tôi, cháy mãi không bao giờ tắt, vẫn luôn ấp ủ. ấm áp, vẫn ấm áp, tràn đầy yêu thương. Bây giờ tôi đã đi xa, nhận tri thức của nhân loại. Có khói trăm tàu, lửa trăm nhà, vui trăm phương. Nhưng không đâu bằng bếp lửa của bà, không gì vui hơn những ngày được ở bên bà, bà ơi!
Bây giờ con ở nơi đất khách quê người, xa lạ, không người thân, khiến con nhớ quê, nhớ mẹ da diết. Ánh lửa bập bùng trước mắt tôi, nhưng không có mùi khói cay nồng từ bếp lửa của bà tôi. Ôi bà ơi, tôi nhớ mùi khói cay cay và hình ảnh bếp lửa gắn bó với bà và cháu, tôi chỉ muốn nhắc bà rằng: “Mời bà bật bếp lên nhé?”
Đóng vai cháu kể lại câu chuyện Bếp Lửa – Mẫu 4
“Mắt càng già càng chan chứa yêu thương”
Da dù khô nhưng lòng không co
Giàu lòng kiên nhẫn, cô vẫn còn hy vọng
Chỉ một vài từ nữa mỗi ngày."
Đó là những vần thơ mà tôi muốn dành tặng cho người bà thân yêu của mình. Tôi là một sinh viên luật ở Nga. Bây giờ là tháng 9, trời bắt đầu se lạnh làm tôi nhớ đến những kỷ niệm về bà ngoại, bếp lửa tôi từng cùng bà nấu cơm, cũng là một phần tuổi thơ của tôi.
Tuổi thơ của tôi gắn bó với bà, lúc đó việc nhóm lửa với bà vô cùng vất vả. Lên bốn tuổi, tôi đã quen với mùi khói. Tôi còn nhớ như in thời điểm đó vào năm 1945, một nạn đói khủng khiếp đã xảy ra với gia đình tôi cũng như nhiều gia đình ở Việt Nam. Cảnh người đi làm ăn thật đau lòng. Số người chết vì đói cũng ngày càng nhiều. Cha đi xe thồ vất vả, ngựa cũng gầy mà cái đói vẫn dai dẳng, dân tình cơ cực.
Rồi trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, bố và mẹ tôi tham gia kháng chiến nên tôi ở với bà. Tám năm cùng bà nhóm lửa, chắc tuổi thơ tôi đã gắn liền với ngọn lửa ấy. Mùi lửa cay cay, mỗi lần châm lửa là nước mắt mũi chảy ròng ròng. Bà đã thay cha mẹ nuôi dạy tôi nên người. Mẹ dạy tôi làm việc nhà, dạy tôi học và chăm sóc tôi với tình yêu thương bao la như một người mẹ.
Sáng nào mẹ cũng làm đồ ăn cho tôi dậy ăn. Cô ấy làm hết công việc này đến công việc khác không nghỉ mà không hề phàn nàn hay đổ lỗi. Cô ấy đã trải qua bao nhiêu sóng gió trong cuộc đời, đã chịu đựng bao gian khổ nên tôi không muốn làm phiền cô ấy nữa. Tôi lớn lên trong vòng tay yêu thương, đùm bọc của bà. Đôi khi những lúc rảnh rỗi, mẹ thường kể chuyện cho tôi nghe rồi căn dặn: “Con phải ra sức học tập để xây dựng đất nước, nếu không thì đất nước con chỉ nghèo mà thôi”.
Có những lúc trời mưa làm củi ướt, lúc đó đội bếp khổ lắm. Mỗi lần ra đồng khóc, bà thường kể chuyện Huế cho tôi nghe. Cô nói với giọng rất truyền cảm, từng lời cô nói như khác đi từ tận đáy lòng tôi. Tiếng tu hú khiến tôi và bà đều nhớ bố mẹ ở chiến khu. Càng lớn tôi càng thấy thương bà, càng không muốn xa quê để mặc bà vất vả.
Năm ấy giặc càn phá làng, đốt phá nhà cửa, tài sản. Ông bà hàng xóm của tôi ai cũng chịu nhiều vất vả, mất mát, đau thương. Hình ảnh ấy làm tôi sợ hãi một phần tuổi thơ. Sau mấy ngày rời quê hương, ông bà hàng xóm trở về nhà. Tôi giúp bà dựng lại túp lều tranh nhỏ để sống qua ngày. Tôi thấy cuộc sống bây giờ thật khốn khổ, nên tôi nói với bà: "Bà ơi, bà viết thư cho bố mẹ bà để họ về giúp bà". Nhưng em không chịu và nói nhỏ với tôi: “Bố mẹ em ở chiến khu còn nhiều việc lắm, viết thư em đừng kể lể, chỉ nói gia đình yên bề gia thất.
Tôi thấu hiểu tấm lòng của chị nên chỉ biết vâng lời, lại càng thấy thương chị, một mình chị gồng gánh mọi công việc và lo cho các con ở chiến khu, tôi cảm thấy chị như một người anh hùng giàu lòng nhân ái, đức độ. hy sinh. Nên việc gì trong nhà làm được, tôi liền giúp mẹ như: cho gà ăn, kiếm củi, nhặt rau,… Những công việc ấy dù nhỏ nhưng cũng giúp ích phần nào cho đấng sinh thành. Những hôm chị làm việc căng thẳng, buổi tối khi lao động chân tay mệt mỏi, một đôi xoa bóp cho chị, cho chị thoải mái.
Ngày qua ngày, tôi cùng bà nhóm lửa. Một ngọn lửa chứa đựng niềm tin và hình ảnh của cô. Mấy chục năm nay, mẹ vẫn thức khuya dậy sớm, trải mưa nắng, chăm sóc cho tôi. Công việc của chị thật đơn giản nhưng tôi vẫn vô cùng biết ơn: chị nấu khoai, chị chia sẻ tình làng nghĩa xóm. Bếp lửa đã cùng chị trải qua mưa nắng trong cuộc đời. Ôi bếp lửa thật giản dị nhưng cá nhân tôi thấy đó là một phép màu thiêng liêng cao đẹp.
Bếp lửa cũng chính là tình yêu thương ấm áp của bà, bếp lửa gắn liền với những khó khăn, vất vả của cuộc đời bà. Mỗi ngày mẹ tất bật vào bếp cũng như góp nhặt niềm vui, tình yêu thương cho tôi và mọi người. Cô không chỉ là người thắp lửa mà còn là người lan tỏa niềm tin đến mọi người.
Bây giờ tôi đã lớn lên sống chung với bếp ga, bếp điện. “Có khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm phương” luôn hiện hữu trong đầu tôi câu hỏi: “Mai đốt lửa chăng”. Ôi ngọn lửa tình của nàng sao mà nguội lạnh quá! Bếp lửa đã nuôi tôi khôn lớn, giúp tôi trưởng thành như ngày hôm nay. Giờ tôi chỉ muốn được ở bên bà, được bà kể chuyện, được bà quan tâm, yêu thương. Mỗi con người đều có cội nguồn để trưởng thành. Chính vì thế tôi sẽ không bao giờ quên hình ảnh người bà và ngọn lửa đã nuôi tôi lớn khôn nên người như ngày hôm nay.
Đóng vai cháu kể lại câu chuyện Bếp Lửa – Văn mẫu 5
Tháng 9 ở Liên Xô khá lạnh, ngồi trong phòng nhìn ra cửa sổ tuyết vẫn rơi. Tôi bước đến bên lò sưởi, hơi ấm từ ngọn lửa làm tôi liên tưởng đến ngọn lửa nhỏ luôn lẩn khuất trong sương sớm. Chợt những kí ức tuổi thơ ùa về như một thước phim quay chậm. Hình ảnh người bà ngày đêm chăm sóc, nuôi nấng tôi trở nên rõ nét hơn bao giờ hết. À, đến giờ chắc mọi người biết mình là ai rồi, mình là cháu nhỏ trong "Bếp Lửa" của Bằng Việt đây, mình hiện đang là sinh viên luật ở nước ngoài, hôm nay. Tôi chợt nhớ về tuổi thơ gian khó, một tình cảm không thể diễn tả bằng lời về bà nội.
Lại nhớ về bà, những buổi sáng khi mặt trời chưa mọc, cháu đã thấy bà nhóm lửa cho một ngày mới, ngọn lửa được bà nhen nhóm bằng tất cả tình yêu thương chứa đựng sự kiên nhẫn, một hình ảnh giản dị nhưng luôn khắc sâu trong tâm trí cháu. trái tim. Tuổi thơ của tôi luôn gắn bó với bà, với bếp lửa nhỏ với đức tính cần cù, chịu khó và đức hi sinh của bà. Và thế là khi lên bốn tuổi, tôi đã quen với mùi khói. Tuy nhiên, đó cũng là khoảng thời gian đen tối nhất trong cuộc đời tôi mà tôi sẽ không bao giờ quên. Đó là vào năm một nghìn chín trăm bốn mươi lăm, khắp nước Việt Nam xảy ra nạn đói khủng khiếp, đây là bóng đen vô tận bao trùm lên đời sống con người. Cái đói, tiếng kêu len lỏi vào từng ngóc ngách của mọi gia đình trên đất nước và gia đình tôi cũng không ngoại lệ. Vì thế mà cha tôi phải làm nghề đánh xe ngựa, đói đến nỗi người ta còn không có ăn chứ đừng nói đến súc vật, nên người bạn đồng hành của cha tôi là con ngựa cũng bị bệnh nặng. Mọi người. Một mảnh ký ức muốn quên, một mảnh tuổi thơ chẳng nhớ gì ngoài khói lam chiều mắt. Đó không phải là khói bếp của cô hay khói của bom đạn, của đống tro tàn của những người đã chết vì đói. Nghĩ lại đến giờ sống mũi tôi vẫn cay cay, nỗi sợ hãi vẫn còn hiện hữu trong đầu.
Ký ức tuổi thơ của tôi là tám năm dài cùng bà nhóm lửa, là tiếng khóc sướt mướt của một chú tiểu quê vào mùa hè. Khi tiếng tu hú vang lên, không biết cô còn nhớ hay không nhưng tôi nhớ lắm, nhớ những lần tôi gối đầu lên chân cô nghe cô kể chuyện hồi còn ở Huế. Tiếng tu hú trong ký ức tôi mang một cảm giác tha thiết, xao xuyến lạ lùng. Làm cho nỗi nhớ của tôi về em ngày một lớn hơn, những kỷ niệm về em trong tôi ngày càng đẹp đẽ hơn bao giờ hết. Thời gian trôi đi, chiến tranh ngày càng ác liệt, bố mẹ tôi theo tiếng gọi của Tổ quốc, cả hai đều tham gia cách mạng kháng chiến. Chính vì thế, tôi đã được bà che chở và nuôi nấng trong quãng thời gian tiếp theo của tuổi thơ. Tôi ở với bà, bà chỉ bảo những việc phải làm, dạy tôi học từng chữ mà bà biết, lo cho tôi từ bữa ăn đến giấc ngủ. Bà không chỉ là bà, mà còn là cha, là mẹ, là thầy và còn là một người bạn. Cuộc đời bà đã nhiều vất vả, cả đời vất vả nuôi con cháu, trước đó bà đã nuôi dạy bố tôi nên người, nay bà lại tiếp tục che chở, dạy dỗ tôi nên người. Cô ấy trong lòng tôi là một người phụ nữ hết lòng vì gia đình, chịu thương chịu khó mà không một lời than thở.
Chiến tranh chưa kết thúc, tiếng bom đạn vẫn inh ỏi khắp nơi. Một năm nọ, bọn giặc tàn ác đốt phá cả ngôi làng nơi ông bà tôi ở. Làm cho những người dân vô tội vốn đã nghèo lại càng khổ hơn. Vậy mà cô ấy vẫn bảo vệ tôi an toàn vượt qua khó khăn đó, khi trở về cô ấy nắm tay tôi. Khung cảnh trước mắt chúng tôi vô cùng hoang tàn, hoang tàn không còn gì. May mắn thay, có những người hàng xóm tốt bụng, giúp bà dựng lại túp lều tranh để ở tạm. Cũng trong đêm đó, mẹ thấy tôi viết thư cho bố, mẹ vẫn chắc nịch rằng: “Bố đang ở chiến khu, bố còn có việc, viết thư thì đừng nói với mẹ nhé. Chuyện này chuyện kia khiến cha lo lắng, huống chi nhà cửa yên ấm!”
Lúc đó tôi luôn thắc mắc, tại sao cô ấy lại cam chịu như vậy, không một lời oán trách, không một lời oán trách. Đến bây giờ tôi mới hiểu, hóa ra bà muốn bố tôi yên tâm công tác, muốn đất nước mau chóng được độc lập tự do. Những giọt nước mắt chợt lăn dài trên má mà chẳng hiểu vì sao, có lẽ sự kính trọng của tôi dành cho cô bỗng lớn hơn rất nhiều. Nghĩ lại, dù sáng sớm hay chiều tối, chị vẫn thắp lên ngọn lửa, trong lòng chị có ngọn lửa luôn nung nấu, ngọn lửa chất chứa những niềm tin le lói về một tương lai tốt đẹp hơn, về trái tim chị. cô luôn vì đất nước.
Nàng đã trải qua bao lần mưa nắng, trần gian chịu bao gian khổ. Bà luôn cần mẫn chăm sóc con cháu, dũng cảm và giàu đức hi sinh. Bà luôn giữ thói quen dậy sớm, hàng chục năm trôi qua cho đến tận bây giờ. Luôn dậy sớm để thắp lên ngọn lửa nhỏ, ngọn lửa mà cô nhóm lên bằng tất cả tình yêu thương mà mình có. Bếp lửa ấy chứa biết bao yêu thương. Đây là những củ khoai lang mẹ làm được cho tôi, ngọt lạ lùng. Là nồi xôi nhỏ nhưng chan chứa tình làng nghĩa xóm khi bà chia cho mọi người trong làng. Bếp lửa của bà thật thiêng liêng và lạ lùng, nó có thể nhen nhóm cả những cảm xúc tuổi thơ mà chính tôi đã sống với nó rất lâu cũng không thể hiểu hết được. Sau này trưởng thành hơn, có lộ trình riêng nên tôi buộc phải đi xa, xa ngọn lửa ấm áp của bà, xa người bà kính yêu. Ở chân trời mới của tôi đâu chỉ có khói lửa của bà mà còn có khói của trăm con tàu ngoài khơi, muôn nơi triệu niềm vui. Tuy nhiên, bản thân tôi vẫn không bao giờ quên nhắc nhở: “Mai con vào bếp nhé?”.
Qua những kỷ niệm thời thơ ấu, tôi cảm thấy mình thật may mắn khi có một người bà giống như vậy. Dù giờ đây tôi đã ở xa cô hàng ngàn cây số nhưng trong tim tôi luôn nhớ về cô, kính trọng và yêu thương cô, đồng thời cũng nhớ về quê hương thân yêu. Tôi muốn gửi đôi lời đến tất cả các bạn, dù ở đâu, trong bất kỳ thời điểm nào, gia đình và những người thân yêu của chúng ta sẽ luôn mong muốn chúng ta được hạnh phúc, có một cuộc sống bình yên và sẽ luôn hạnh phúc. luôn che chở và yêu thương chúng em. Anh chỉ mong em hãy trân trọng những giây phút vô cùng quý giá khi ở bên gia đình, để sau này không phải hối tiếc, không như anh, lúc muốn ôm em nhất mà không được...
Đóng vai người cháu kể chuyện Bếp Lửa – Văn mẫu 6
Mùa đông ở Nga được bao phủ bởi tuyết trắng. Đêm lạnh như cắt da cắt thịt, ngồi bên lò sưởi, nắm bàn tay ấm áp, nhìn ánh lửa bập bùng, tôi chợt nghĩ đến em và quê hương.
Tuổi thơ của tôi gắn bó với bà, lúc đó việc nhóm lửa với bà vô cùng vất vả. Lên bốn tuổi, tôi đã quen với mùi khói. Tôi còn nhớ như in thời điểm đó vào năm 1945, một nạn đói khủng khiếp đã xảy ra với gia đình tôi cũng như nhiều gia đình ở Việt Nam. Cảnh người đi làm ăn thật đau lòng. Số người chết vì đói cũng ngày càng nhiều. Cha đi xe thồ vất vả, ngựa cũng gầy mà cái đói vẫn dai dẳng, dân tình cơ cực.
Rồi trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp, bố và mẹ tôi tham gia kháng chiến nên tôi ở với bà. Tám năm cùng bà nhóm lửa, chắc tuổi thơ tôi đã gắn liền với ngọn lửa ấy. Mùi lửa cay cay, mỗi lần châm lửa là nước mắt mũi chảy ròng ròng. Bà đã thay cha mẹ nuôi dạy tôi nên người. Mẹ dạy tôi làm việc nhà, dạy tôi học và chăm sóc tôi với tình yêu thương bao la như một người mẹ.
Sáng nào mẹ cũng làm đồ ăn cho tôi dậy ăn. Cô ấy làm hết công việc này đến công việc khác không nghỉ mà không phàn nàn hay trách móc. Cô ấy đã trải qua bao nhiêu sóng gió trong cuộc đời, đã chịu đựng bao gian khổ nên tôi không muốn làm phiền cô ấy nữa. Tôi lớn lên trong vòng tay yêu thương, đùm bọc của bà. Đôi khi những lúc rảnh rỗi, mẹ thường kể chuyện cho tôi nghe rồi nhắc nhở: “Con phải ra sức học tập để xây dựng đất nước, nếu không thì nước nhà mãi nghèo”.
Có những lúc trời mưa làm củi ướt, lúc đó đội bếp khổ lắm. Mỗi lần ra đồng khóc, bà thường kể chuyện Huế cho tôi nghe. Cô nói với giọng rất truyền cảm, từng lời cô nói như khác đi từ tận đáy lòng tôi. Tiếng tu hú khiến tôi và bà đều nhớ bố mẹ ở chiến khu. Càng lớn tôi càng thấy thương bà, càng không muốn xa quê để mặc bà vất vả.
Năm ấy giặc càn phá làng, đốt phá nhà cửa, tài sản. Ông bà hàng xóm của tôi ai cũng chịu nhiều vất vả, mất mát, đau thương. Hình ảnh ấy làm tôi sợ hãi một phần tuổi thơ. Rời quê được mấy ngày, ông bà hàng xóm lại tìm về. Tôi giúp bà dựng lại túp lều tranh nhỏ để sống qua ngày. Tôi thấy cuộc sống bây giờ thật khốn khổ, nên tôi nói với bà: "Bà ơi, bà viết thư cho bố mẹ bà để họ về giúp bà". Nhưng em không chịu và nói nhỏ với tôi: “Bố mẹ em ở chiến khu còn nhiều việc lắm, viết thư em đừng kể lể, chỉ nói gia đình yên bề gia thất.
Tôi thấu hiểu tấm lòng của chị nên chỉ biết vâng lời, lại càng thấy thương chị, một mình chị gồng gánh mọi công việc và lo cho các con ở chiến khu, tôi cảm thấy chị như một người anh hùng giàu lòng nhân ái, đức độ. hy sinh. Nên việc gì trong nhà làm được, tôi liền giúp mẹ như: cho gà ăn, kiếm củi, nhặt rau,… Những công việc ấy dù nhỏ nhưng cũng giúp ích phần nào cho đấng sinh thành. Những hôm chị làm việc căng thẳng, buổi tối khi lao động chân tay mệt mỏi, một đôi xoa bóp cho chị, cho chị thoải mái.
Ngày qua ngày, tôi cùng bà nhóm lửa. Một ngọn lửa chứa đựng niềm tin và hình ảnh của cô. Mấy chục năm nay, mẹ vẫn thức khuya dậy sớm, trải mưa nắng, chăm sóc cho tôi. Công việc của chị thật đơn giản nhưng tôi vẫn vô cùng biết ơn: chị nấu khoai, chị chia sẻ tình làng nghĩa xóm. Bếp lửa đã cùng chị trải qua mưa nắng trong cuộc đời. Ôi bếp lửa thật giản dị nhưng cá nhân tôi thấy đó là một phép màu thiêng liêng cao đẹp.
Bếp lửa cũng chính là tình yêu thương ấm áp của bà, bếp lửa gắn liền với những khó khăn, vất vả của cuộc đời bà. Mỗi ngày mẹ tất bật vào bếp cũng như góp nhặt niềm vui, tình yêu thương cho tôi và mọi người. Cô không chỉ là người thắp lửa mà còn là người lan tỏa niềm tin đến mọi người.
Bây giờ tôi đã lớn lên sống chung với bếp ga, bếp điện. “Có khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm phương” luôn hiện hữu trong đầu tôi câu hỏi: “Mai đốt lửa chăng”. Ôi ngọn lửa tình của nàng sao mà nguội lạnh quá! Bếp lửa đã nuôi tôi khôn lớn, giúp tôi trưởng thành như ngày hôm nay. Giờ tôi chỉ muốn được ở bên bà, được bà kể chuyện, được bà quan tâm, yêu thương. Mỗi con người đều có cội nguồn để trưởng thành. Chính vì thế tôi sẽ không bao giờ quên hình ảnh người bà và ngọn lửa đã nuôi tôi lớn khôn nên người như ngày hôm nay.
Đóng vai người cháu kể chuyện Bếp Lửa ngắn gọn hay nhất
Xem thêm: Top 5 mẫu giày Adidas trẻ em chính hãng được yêu thích nhất
Đóng vai cháu kể lại câu chuyện Bếp Lửa – Văn mẫu 7
Tôi còn nhớ nhà thơ Nguyễn Duy từng viết:
“Hồi nhỏ ra cống Na câu cá.
bồng váy chị đi chợ Bình Lâm
Bắt chim sẻ bên tai tượng Phật
và đôi khi trộm nhãn chùa Trần”
Như trong ký ức tuổi thơ của bao đứa trẻ, những năm tháng vô tư bên bà luôn là khoảng thời gian ngọt ngào và thân thương nhất. Trải qua bao thăng trầm của cuộc đời và sự sàng lọc của thời gian, những kỉ niệm mộc mạc ấy về bà vẫn còn đọng lại trong kí ức của bao tâm hồn, nó đưa ta về với khung trời xưa bình dị và êm đềm. bản thân ở tuổi thiếu niên. Với tôi, có lẽ ký ức về cô bên ánh lửa bập bùng mỗi sớm mai luôn hiện về trong ký ức tôi trên những chặng đường mà tôi đã đi qua. Nỗi nhớ ấy càng da diết hơn trong những năm tháng sống xa quê hương, đón gió tuyết nơi xứ sở Bạch Dương. Trong những lúc tĩnh lặng, mỗi khi nhìn khói nhà xa xa, cả một trời thương nhớ lại ùa về trong tôi, về mẹ về bên bếp lửa hồng sưởi ấm cả tuổi thơ, về hương vị quê nhà...
Theo dòng hoài niệm, ký ức đưa tôi về những đêm đói khát tăm tối năm 1945. Ngôi làng nhỏ nơi tôi ở, gia đình nào cũng lâm vào cảnh đói rét thê thảm. Trong những năm tháng cơ cực ấy, để bươn chải giành giật sự sống, cha tôi phải ra phố chạy xe ôm, nhưng cũng chỉ đủ sống qua ngày rau cháo. Cái nghèo cùng cực của năm Đinh Dậu ấy như một nỗi sợ hãi trong tâm hồn non nớt của đứa trẻ lên bốn lúc bấy giờ. Chính mùi khói bếp của bà đã mang lại cho tôi sự ấm áp, bình yên trong tâm hồn và xua tan đi mùi chết chóc bao trùm khắp các ngõ xóm của làng quê nghèo. Mùi hương giản dị tưởng chừng như tỏa ra từ tình yêu thương ấm áp của cô đã sưởi ấm tôi suốt thời thơ ấu, để rồi sau này trên mỗi chặng đường dài rộng mà tôi đã đi qua, mùi khói bếp ấy vẫn làm tôi sởn gai ốc. mũi khi hồi tưởng. Những năm sau đó, kháng chiến bùng nổ, bố mẹ tôi rời gia đình đi hoạt động cách mạng và lên đường theo tiếng gọi của Tổ quốc. Trong tám năm dài đằng đẵng tôi sống dưới sự che chở của nàng, trong bóng mát của linh hồn nàng và bên ngọn lửa đỏ nàng thắp lên mỗi sáng và tối. Những năm tháng tuổi thơ ấy, bên ông bà, bên bếp lửa, vẫn còn một nhân chứng mà tôi không bao giờ quên: con chim tu hú. Bài hát của nó nghe thật lạc lõng và cô đơn vì nó đang khao khát được bảo vệ. Tiếng tu hú lo lắng như xé toạc không gian bao la trống trải, em càng thương chú chim tu hú xấu số bao nhiêu thì càng biết ơn và trân trọng những ngày thơ ấu hạnh phúc được chị chăm sóc, che chở bấy nhiêu. . Bên ánh lửa bập bùng, tôi lắng nghe chị kể về cuộc đời của chị trong những năm tháng ở Huế. Một cuộc sống đầy gian nan, cơ cực. Cô ấy đã gửi gắm những hy vọng và mong ước về một tương lai tươi sáng hơn trong tôi. Rồi cũng bên bếp lửa hồng, mẹ lo cho tôi từng bữa ăn, giấc ngủ và là người thầy đầu tiên dạy cho tôi những bài học quý giá trong cuộc sống. Những bài học làm người đẹp ấy đã trở thành lợi thế vững chắc chắp cánh cho những ước mơ đẹp đẽ trên đời. Ngọn lửa hồng ấm áp ấy đã mang đến cho tâm hồn tôi niềm an ủi trong những tháng ngày thiếu thốn tình thương của cha mẹ, bà như một lợi thế ý thức để tôi vững vàng vươn lên. Cuộc sống vẫn vậy, vẫn khắc nghiệt và luôn muốn thử thách bản lĩnh của con người. cho đến một ngày tiếng súng, tiếng bom của chiến tranh ác liệt dội về làng tôi. Trước họng súng và ngòi nổ hủy diệt của kẻ thù, làng tôi lúc bấy giờ là một đống tro tàn, nhà cửa của mọi người đều bị đốt cháy hoàn toàn. Tôi biết lúc đó cô ấy đã nuốt nỗi đau và nước mắt vào trong. Mái ấm của bà tôi không còn nhưng nghị lực và ý chí thép được tôi rèn trong những năm tháng tan vỡ của thế giới không cho phép bà tôi bỏ cuộc. Cô ấy kiên quyết hướng dẫn tôi vượt qua hoàn cảnh khó khăn. Tôi hiểu rằng những khó khăn, gian khổ vừa trải qua là khôn lường với những khó khăn, vất vả và cả niềm khao khát được làm con nơi chiến trường đỏ lửa phải dồn nén vào trong con người chị. Và rồi, đi đâu cũng đến đó, nhờ tình làng nghĩa xóm, năm nào ông bà cũng dựng được căn nhà nhỏ trên nền đất cũ. Cô ấy đã đánh thức trong tôi ý chí và nghị lực sống trên cuộc đời này. Đó là một điều kỳ diệu bởi tôi tin rằng những gì bị thiêu rụi trong ngọn lửa hung dữ đó đã được hồi sinh trong ngọn lửa của bà. Cứ như thế tuổi thơ tôi được bà che chở bao năm. Chính ngọn lửa lòng chị đã thắp lên ngọn lửa bền bỉ, trường tồn qua thời gian của ngọn lửa kia.
Tháng năm khiến tôi khôn lớn và trưởng thành, những hoài bão đã đưa bước chân tôi đến những chân trời xa xôi, nhưng tôi không thể nào quên được ngọn lửa hồng nơi góc bếp bởi ở đó có tình yêu và sự hi sinh thầm lặng của mẹ. Người bà mà tôi dành cả cuộc đời để biết ơn và kính trọng, chính ở đó bà đã thắp lại cho tôi những ước mơ về một cuộc sống mới. Nếu truyện cổ tích là người bạn của bao tâm hồn trẻ thơ, thì mẹ chính là người viết nên câu chuyện cổ tích giữa hạ giới này cho em. Trong câu chuyện ấy là ánh lửa bập bùng sớm tối, là tình bà ấm áp, là mùi sắn ngào ngạt, là quê hương đất nước, và mãi là nơi tôi thuộc về...
Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa – Văn mẫu 8
Trong mỗi chúng ta, có lẽ ký ức tuổi thơ luôn là những trang ký ức sâu đậm nhất. Đó có thể là kỉ niệm về làng quê thân yêu, cũng có thể là kí ức về tuổi học trò. Những kỷ niệm đó dường như đã ăn sâu vào tiềm thức khiến chúng tôi khó có thể quên được. Tương tự cho tôi!
Tuổi thơ về người bà thân yêu gắn liền với bóng đen rùng rợn của nạn đói năm Đinh Dậu đã trở thành dấu ấn sâu đậm nhất trong lòng tôi. và trong nỗi nhớ ấy, lòng tôi bồi hồi xúc động khi những kỉ niệm ùa về.
Với cá nhân tôi, “ngọn lửa lẩn khuất trong sương sớm”, “lò sưởi ấm áp” đã trở thành hình ảnh gần gũi, quen thuộc trong gia đình nông thôn chúng tôi. Bếp lò là nơi bắt đầu nỗi nhớ của tôi. Trong cảm xúc dâng trào ấy, bếp lửa đã trở thành một kỉ niệm khó quên. Bếp lửa thể hiện sự tận tụy của bà, nhưng cũng thắp lên tình yêu thương sâu nặng của hai bà cháu.
Từ năm bốn tuổi, tôi đã quen với mùi khói bà phả vào người. Năm ấy là một năm đói rét và hình ảnh bếp lửa đã trở nên không thể thiếu trong cuộc đời tôi. Bây giờ nghĩ lại, tôi cảm thấy cay cay trên sống mũi. Ngọn lửa thiêng đã trở thành một dấu ấn, một nỗi nhớ, một nỗi sợ hãi sâu sắc trong cuộc đời tôi.
Tám năm! Một khoảng thời gian không dài cũng không ngắn nhưng cũng đủ thắp lại trong lòng tôi ngọn lửa yêu thương bà nội cháy bỏng. Ngọn lửa của quê hương, của tình yêu gợi lên tiếng chim tu hú như giục giã nghe sao mà xót xa!
Trong chiến tranh, tôi sống dưới sự chăm sóc và nuôi dưỡng của bà. Bếp lửa xuất hiện như hơi ấm tình bà cháu, như một chỗ dựa có ý thức, như một chút chăm sóc của bà. Bên bếp lửa, chị kể chuyện ở Huế, chị dạy học, chị kể, chị chăm em.
Ra trận, ai cũng mất mát nhiều, nhưng mọi người vẫn giúp nhau dựng chòi cho nhau. Cô ấy âm thầm chịu đựng để bố mẹ tôi yên tâm công tác ở một nơi xa. Vất vả chồng chất khó khăn, khó khăn nối tiếp khó khăn, nhưng mẹ vẫn dặn tôi phải tin rằng: “Bố đang ở chiến khu, bố còn có việc với bố, con viết thư đi, đừng nói này, bảo kia, chỉ nói nhà yên bề gia thất" Ôi chao! Khi nghĩ lại lời khuyên ấy thật mộc mạc và giản đơn nhưng chất chứa biết bao cảm xúc và biết bao đau khổ trong cuộc đời.
Khi nghĩ lại, ký ức đó lại hiện về. Tôi lại nghĩ về cuộc sống của cô ấy, cuộc sống của cô ấy luôn đầy ắp công việc. Mẹ vẫn giữ thói quen dậy sớm nhóm lửa và công việc đó kéo dài suốt cuộc đời mẹ, mẹ nhóm lửa cho hôm nay, cho ngày mai và cho đến ngày mai… Mẹ nấu cho tôi những bữa cơm trông thật giản dị. nhưng chứa đựng trong đó tình cảm sâu sắc của cô. Và chính cô đã khơi dậy trong tôi những ước mơ, hoài bão thời thơ ấu.
Ngọn lửa bà nhóm lên trong đời là ngọn lửa thiêng liêng lạ lùng, là ký ức nâng tôi lên giữa cuộc đời dài. Bà tôi không chỉ là người nhóm lửa mà còn là người truyền lửa - ngọn lửa của sự sống, tình yêu thương, niềm tin cho bao thế hệ. Bếp lửa có thể trở thành biểu tượng của sự sống yêu thương cội nguồn, gia đình, dân tộc, sự sống bền bỉ của con người.
Không chỉ giống nhau, hiện diện cùng bếp lửa là người bà, còn là đại diện cho hình ảnh người phụ nữ Việt Nam với vẻ đẹp đảm đang, nhân hậu và giàu lòng yêu thương. Bà giàu đức hy sinh, giàu lòng yêu nước. Giữa tro tàn, mất mát và đau thương, cô vẫn miệt mài thắp lên ngọn lửa. Ngọn lửa mà bà thường thắp sớm chiều đã nhóm lên thành ngọn lửa trong lòng.
Nỗi nhớ nàng khép lại bằng nỗi buồn của tôi. Em nhớ chị da diết về tình yêu thương, về ngọn lửa thiêng liêng và về quê hương nồng nàn, ấm áp. Vì vậy tôi rất trân trọng những tình cảm mình đang có. Bếp lửa như nhắc em nhớ về cội nguồn, tình nghĩa thiêng liêng, sâu nặng trong cuộc đời.
Đóng vai người cháu kể chuyện Bếp Lửa – Văn mẫu 9
“Tách, tách, tách…” – tiếng lửa bập bùng giữa tiết trời se lạnh giữa đất nước Xô Viết khiến những người con xa xứ như tôi càng thêm nao lòng. Nó dấy lên trong tôi nỗi nhớ nhà, nhớ bố mẹ và đặc biệt là người bà thân yêu cùng ngọn lửa bà đã thắp lên.
Mỗi sáng thức dậy, ngọn lửa quen thuộc của nhà tôi cũng như bao gia đình khác trên đất nước Việt Nam lại được thắp lên bởi bàn tay khéo léo của bà tôi dù có phải trải qua bao gian khổ. . Bây giờ nhìn lại, hình ảnh ánh lửa bập bùng, lẩn khuất trong sương sớm làm tôi nhớ đến cô và yêu cô nhiều hơn.
Dọc theo dòng hoài niệm, bếp lửa còn gợi cho con trai tôi một thời kinh khủng nhất trong cuộc đời - nạn đói năm 1945. Cái đói đã đeo bám không chỉ gia đình tôi mà còn hàng triệu người dân khác trên khắp đất nước. Trong khi đó, vì cuộc sống ngắn ngủi của mình, cha tôi phải lái một chiếc xe ngựa thuê cho đến khi ông hoàn toàn kiệt sức. Cái đói đó làm đầu óc một thằng bé bốn tuổi như tôi sợ hãi, tưởng chừng như mình đã chết. Nhưng không, chính mùi khói bếp của bà đã mang đến cho tôi hơi ấm duy nhất, xua tan bao ẩn ức tiêu cực trong tôi. Hương thơm giản dị ấy đã cho tôi thấy tình yêu nồng ấm của bà và sưởi ấm tâm hồn tôi để mai sau, trên hành trình dài của cuộc đời, mỗi khi nghĩ đến lại thấy cay cay sống mũi. cay. Sau này, thực dân Pháp trở lại xâm lược nước nhà, kháng chiến bùng nổ, cha mẹ theo tiếng gọi của Tổ quốc, từ giã gia đình. Trong tám năm đó, tôi sống với bà, sống với sự chăm sóc của bà và cả tiếng của một nhà sư. Bên bếp lửa hồng, mỗi khi tu hú, chị lại kể cho tôi nghe những ngày ở Huế. Tiếng tu hú làm cả tôi và bà cùng dậy với nỗi nhớ cha mẹ nơi chiến khu. Sống trong tình yêu thương của bà khiến tôi chạnh lòng thương đứa con côi cút trên cánh đồng xa. Cô đã phải trải qua nhiều gian khổ nhưng vẫn giữ thói quen dậy sớm. Ngọn lửa bà thắp lên thiêng liêng lạ lùng.
Rồi cũng chính nơi bếp lửa ấy, mẹ dạy con làm, mẹ chăm chỉ học hành vì con. Những bài học làm người đẹp ấy đã trở thành nguồn động lực chắp cánh cho những ước mơ tươi đẹp trong cuộc đời tôi. Ở bên cô ấy, tôi như có được lợi thế vững chắc với thế giới trong những tháng ngày không có bố mẹ bên cạnh. Tuy nhiên, cuộc sống luôn thích thử thách con người, năm ấy giặc đốt làng. Ngôi nhà của ông bà tôi và nhiều gia đình biến thành đống tro tàn. Tôi thấy và tôi biết em lặng lẽ lau nước mắt, vuốt lại nỗi đau trong lòng. Và mãi đến bây giờ tôi mới hiểu được hành động của chị, bởi nơi ẩn nấp của chúng tôi đã không còn, nhưng ý chí và nghị lực của chị không cho phép chị gục ngã. Và chính vì thế mẹ đã nâng đỡ tôi, dìu dắt tôi vượt qua gian khó. Lúc đó tôi mới hiểu rằng tất cả những vất vả mà tôi trải qua không thể đong đếm được bằng sự cơ cực của cô ấy. Vì tình yêu, ngôi làng dựng cho hai người một túp lều tranh. Tôi tin rằng ngọn lửa đó không thiêu đốt chúng ta, nhưng đang hồi sinh đức tin của chúng ta. Vẫn kiên định, chị nói với tôi:
– Bố anh ở chiến khu có nhiều điều phải trăn trở, suy nghĩ. Đừng viết thư để kể về điều này hay điều kia. Cứ cho là nhà cửa yên ấm.
Tôi đã trả lời:
- Tôi đã biết!
Đó là những gì bà tôi là. Dù nghèo khó, khó khăn nhưng mẹ vẫn nghĩ cho con cháu, là hậu phương vững chắc cho con cháu (chắc chắn trên quê hương này còn rất nhiều hậu phương có ý thức như vậy).
Rồi sớm, chiều, ngọn lửa từ đôi bàn tay chị bùng lên. Trong lòng cô có một ngọn lửa luôn âm ỉ cháy. Nó cháy hết mình luôn. Nó cháy bỏng như niềm tin bất diệt của cô. Cô ấy đã truyền ngọn lửa ấy cho tôi, thổi bùng ngọn lửa lạnh lùng trong tôi. Đó là ngọn lửa của lòng yêu nước. Đó là ngọn lửa đấu tranh, ngọn lửa của niềm tin và khát vọng vào tương lai. Và cô ấy không chỉ là người thiết lập nó mà còn là người trao quyền cho nó.
Giờ đây khi đã trưởng thành, đã được đặt chân đến những nơi rộng lớn, hiện đại nhưng trong tiềm thức của tôi vẫn không thôi câu hỏi: “Ngày mai mẹ thắp lửa lên nhé?”.
Cái bếp đó ấm áp làm sao! Bếp lửa ấy chắc đã nâng đỡ những người xưa như tôi vững tin nơi xứ người. Và từ đó em luôn tự nhủ phải yêu quý, kính trọng và biết ơn gia đình, quê hương, đất nước - cái nôi của niềm tin, khát vọng và tương lai.
Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp Lửa – Văn mẫu 10
Đã bao năm xa quê, xa bà, xa đất nước thân yêu nhưng tôi vẫn không thể quên những năm tháng tuổi thơ thiêng liêng, bên bà bên bếp lửa ấm áp. Cũng như cái lạnh của mùa đông nước Nga làm tôi bồi hồi nhớ về thời ấy.
Năm tôi lên bốn, tức là năm 1945, đất nước đang trong nạn đói khủng khiếp, đời sống rất khó khăn. Bố mẹ tôi phải ra ngoài kiếm tiền, tôi được bà ngoại chăm sóc. Tôi nhớ lúc đó cả nhà ai cũng đói, cả người lẫn ngựa đều gầy guộc. Nhiều người chết đói nên người ta phải dùng rơm để trừ chết, đốt nhiều đến nỗi khói còn cay xè cả mắt. Dù vậy, tôi và bà không bỏ cuộc, chúng tôi ngồi bên đống lửa như còn một tia hy vọng, tuy không lớn nhưng vẫn còn sống.
Bố mẹ tôi theo tiếng gọi của Tổ quốc, để lại tôi cho bà ngoại nuôi nấng. Tám năm dài tôi cùng nàng nhóm lửa, dù khó khăn bao nhiêu, nàng vẫn thắp lên ngọn lửa mỗi ngày như một niềm hy vọng. Tôi ngồi nhìn lũ chim tu hú tha thiết hót ngoài đồng, tôi chỉ muốn nó nói: “Sao mày không ở với nó đi?” Từ khi còn nhỏ, tôi đã quen thuộc với cô ấy. Cùng cô dậy sớm thắp lên “hy vọng” đã dần trở thành niềm vui nho nhỏ của tôi.
Tôi vẫn nhớ những câu chuyện của cô ấy hồi đó. Cô thường kể cho tôi nghe những ngày ở Huế, kể bao nhiêu tôi cũng không chán. Được ngả đầu vào lòng bà, được những ngón tay lạnh giá của bà luồn qua tóc, được nghe những câu chuyện bên bếp lửa ấm áp và tất nhiên, được ở bên bà cũng đủ làm tôi hạnh phúc.
Bố mẹ đi xa, bà thay mặt tôi dạy dỗ tôi biết bao điều, bà lo cho tôi ăn học, lo cho tôi ăn học, lo cho tôi, khuyên nhủ tôi những điều sai trái. Khi tôi lớn lên, thấy mẹ thương tôi, lo tôi không đủ tình thương, mẹ quyết tâm gánh vác trách nhiệm làm cha, làm mẹ, làm thầy để chăm sóc tôi nên người. Dù khó khăn nhưng cô ấy chỉ để tôi thấy nụ cười dịu dàng. Nghĩ đến đây, hai hàng nước mắt tôi lăn dài trên má…
Bình yên cứ thế cho đến khi…. Năm ấy giặc đốt làng. Tôi bỏ trốn cùng cô ấy. Khi mọi chuyện đã xong, mẹ nắm tay tôi bước những bước chân run run vào làng, trước mắt tôi mọi thứ chỉ còn là đống đổ nát. Tôi có thể nghe thấy tiếng người ta khóc. Chúng tôi đến ngôi nhà của mình, nó đã bị đổ, nhưng may mắn thay những người hàng xóm đã giúp chúng tôi dựng lại nó. Đêm đó, ngồi bên cạnh, mẹ bỗng nói với tôi: “Con viết thư cho bố thì đừng nói với mẹ điều này điều kia, chỉ nói rằng chúng ta đã yên bề gia thất. Đừng để bố phải lo lắng”.
Vậy đấy, dù thế nào bà tôi vẫn cố gắng. Người phụ nữ đó là niềm tự hào lớn của tôi, cô ấy không bao giờ phàn nàn, hay tỏ ra mệt mỏi, tôi biết cô ấy quyết tâm giữ cho tôi luôn lạc quan. Dù sớm hay muộn, dù đã mấy chục năm trôi qua nhưng mẹ vẫn thắp lên ngọn lửa ấm áp ấy. Bếp lửa được cô chọn bằng tất cả tình yêu của mình. Chính bếp lửa là nơi có sắn ngọt, có chung nồi xôi và tình cảm tuổi thơ. Tôi hiểu lòng bà, vì sao bà thắp lửa, tôi hiểu bà đang hy vọng, ngọn lửa bà thắp lên như một niềm tin dân tộc sẽ thắng, sẽ bình yên. Cô đã dành cả cuộc đời mình chỉ để mong rằng niềm tin hạnh phúc của mình có thể trở thành sự thật.
Dù xa Tổ quốc, dù không được bên em, dù thấy bao điều mới lạ. Tôi vẫn không quên hình ảnh người bà thân yêu và ngọn lửa đã thắp sáng niềm tin cho tôi. Tôi tin rằng cô ấy luôn ở đây, thắp lên ngọn lửa lạnh lẽo trong lồng giam của tôi. "Ngày mai bật bếp nhé?"
Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp Lửa – Văn mẫu 11
Khi tôi nhận được một lá thư từ nhà, tôi đã rất hạnh phúc. Ngồi bên lò sưởi đọc thư, lòng tôi nhớ quê hương tha thiết. Mùa đông châu Âu lạnh thấu xương. Lò sưởi cháy rực nhưng vẫn không đủ ấm. Ánh sáng rực rỡ và ấm áp chiếu vào mặt tôi làm tôi nhớ đến bếp lửa âm ỉ và hình bóng của bà tôi năm xưa. Nỗi nhớ da diết chiếm lấy tâm hồn tôi, da diết đến lạ lùng. Hình ảnh bếp lò mờ ảo, lẩn khuất trong sương sớm và người bà hiền từ, tần tảo hiện về trong tâm trí xa xăm. (Đóng vai cháu trai)
Tôi sinh ra trong hoàn cảnh nghèo khó cùng cực. Chính sách bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp đã làm cho nước nhà kiệt quệ, dân cày khổ không kể xiết. quốc gia rơi vào bóng tối của cuộc khủng hoảng. Cuộc sống đang bế tắc. Một cảnh sống bức bối, ngột ngạt bao trùm khắp mặt đất.
Tôi không nhớ mình đã lớn lên như thế nào. Kí ức xa xôi và trong trẻo nhất là năm tôi bốn tuổi. Năm đó là năm đói kém. Hết thiên tai, hạn hán lại bùng phát dịch bệnh, sản xuất liên tục bị thất bát, thất thu. Cái đói như bóng ma lạnh lùng len lỏi trong mỗi gia đình. Đâu đó quanh đây, thoảng nghe tiếng khóc người ra đi. Khói mù mịt bao trùm cả làng, bao trùm một không khí tang thương.
Bố lên xe ngựa khô gầy. Có khi bố đi xa mấy ngày mới về. Còn mẹ thì làm ruộng ngoài đồng, tối mịt mới về để lo kế sinh nhai. Bà em già yếu ở nhà chăm sóc em. Xung quanh chỉ có tôi và cô ấy. bạn đi đâu, tôi sẽ nói cho bạn biết. Bất cứ điều gì cô ấy làm, tôi đứng bên cạnh cô ấy. Tôi sợ hãi những gì xung quanh. Bởi vì nó đã bị hủy hoại và im lặng một cách kỳ lạ.
Nhớ nhất là những lần cùng cô nhóm lửa, những lần cùng cô ngồi bên ngọn lửa ấm áp. Khói bếp cay xè cả hai mắt, chớp chớp mắt rồi thở, nước mắt mũi chảy liên tục. Cho đến tận bây giờ, mỗi khi nghĩ lại, tôi vẫn còn cảm giác cay cay nơi sống mũi.
Không chịu nổi cuộc sống lầm than nô lệ, sớm giác ngộ lý tưởng cách mạng, cha mẹ tôi thoát ly kháng chiến, quyết tâm đấu tranh diệt giặc, giành lại nước. Chỉ còn tôi và bà ngoại ở nhà. Bao nhiêu năm thức trắng với cô là bấy nhiêu yêu thương và thấu hiểu. Mùa hè đã qua, mùa thu đang đến, mùa đông đang đến, mùa xuân đang đến. Thời gian lặng lẽ trôi qua. Trong nhiều năm, cha mẹ tôi đã không ở nhà. Tôi cũng dần lớn lên trong vòng tay yêu thương, che chở của bà.
Em yêu đôi bàn tay cần cù, chịu khó không lúc nào ngơi nghỉ của chị. Việc lặt vặt, việc nhà đều do một tay cô lên kế hoạch. Mỗi sáng cô ấy thức dậy, tôi cũng dậy cùng cô ấy. Cô nhóm lửa, tôi ngồi cạnh canh chừng. Sau đó tôi giúp cô ấy vào bếp để cô ấy vo gạo.
Ồ! Có giúp chị đội bếp mới thương chị chịu bao khổ ải, cay đắng. Vào mùa khô, nhóm lửa không khó. Nhưng vào mùa mưa và mùa đông lạnh giá thì quả là một kỳ công. Rơm ướt thổi mãi mà không cháy, khói cứ bốc lên nghi ngút. Cú đánh càng mạnh, khói càng mạnh. Cái cung rơm đó lầm lì, ngỗ ngược và đáng ghét. Nhiều lúc bực quá, tắt đi rồi bật lại. Cô nhìn và cười bảo cô nhóm.
Bố mẹ đi làm về không được. Thỉnh thoảng, tôi thấy ai đó đến và gửi một cái gì đó. Tôi biết rằng bố mẹ tôi đã nhắn tin cho tôi để chào hỏi. Bà tôi cũng bảo tôi gửi vài lời. Yêu cô ấy, tôi cũng rất ngoan, luôn nghe lời cô ấy và không bao giờ nghịch ngợm. Mẹ thường dạy tôi làm mọi việc, nói rằng khi tôi lớn lên, tôi vẫn có thể làm được. Bà đã già yếu, không biết còn sống được bao lâu, cha mẹ đã đi xa, cuộc chiến không biết khi nào kết thúc. Mỗi lần nhắc đến điều đó, khóe mắt cô lại ứa lệ.
Cô ấy cũng dạy tôi học. Không có người phụ nữ biết viết không thể dạy tôi viết. Mẹ dạy tôi những đạo lý ở đời qua những câu chuyện. Có lẽ, bà cố của tôi đã dạy cô ấy những điều đó. Bà đã thuộc lòng và dạy lại cho các cháu của mình. Mãi sau này, khi các anh chị quân đội thả tôi về làng và dạy tôi viết, tôi mới biết viết và biết đọc.
Đêm đêm, mẹ ôm tôi vào lòng và kể chuyện cho tôi nghe. Cô hay kể về những ngày ở Huế. Rồi những câu chuyện ngày xưa, chuyện ngày xưa… Những câu chuyện cổ tích thần kỳ đưa tôi vào thế giới của thần tiên, thiện và ác. Truyện ngụ ngôn nhắc nhở em phải sống tốt bụng, hiền lành. Ôi, những năm tháng diệu kỳ với cô là những năm tháng của ước mơ và niềm vui. Tôi ước có một bà tiên nào đó đến đây và ban cho cô ấy nhiều điều ước. và tôi chỉ mong sao đất nước thanh bình, để đời bà bớt khổ, tôi được thanh thản.
Tuy nhiên, đó chỉ là một giấc mơ. Cuộc sống còn nhiều gian khó. Mỗi trưa hè, cái nắng chói chang đốt cháy cánh đồng khô cằn, tiếng tu hú làm lòng tôi bồn chồn. Tiếng hú thê lương vang lên theo từng nhịp. Có một cái gì đó khác nhau về mùa giải này. Có phải vì đói quá nên anh mới lang thang đến nơi này không?
Tiếng hú ma quái vang vọng từ những bụi cây ở cánh đồng xa thật đáng sợ. Tiếng tu hú vang lên trong buổi chiều tắt nắng, trên nghĩa địa mỗi khi chôn người chết. Âm thanh đó làm tôi sợ hãi như một ký ức không thể xóa nhòa. Phải chăng nó cũng đang tìm nơi ở mà chưa tìm được? Nhiều lúc tôi nghĩ sao anh không về ở với bà, gọi quanh vườn nhà bà cho bớt quạnh hiu.
Thời gian trôi qua. Cuộc chiến ngày càng khốc liệt. Bố mẹ không về được. Kẻ thù xâm chiếm làng. Đi đến đâu, chúng cướp bóc đến đó, đốt phá hết đến đó. Không chỉ cướp đi nguồn sống của con người, chúng còn muốn tiêu diệt nguồn sống của con người. Chúng là ma quỷ. Họ không có trái tim. do đó, họ cũng không có lòng thương xót. Họ hiếu chiến và hung bạo để gieo rắc tai họa.
Năm ấy, cả ngôi làng yên bình bỗng bừng sáng. Từng mái nhà kiên cường bao năm trước phong ba bão táp nay đã thành tro bụi. Công sức xây dựng hàng chục năm của người dân nhanh chóng tan thành cát bụi. Sau nỗi kinh hoàng đó, mọi người trở về làng. Không bỏ cuộc, họ quyết tâm làm lại, quyết tâm xây dựng cuộc sống mới. Kẻ thù dù có tàn bạo đến đâu, dù có phá hoại bao nhiêu lần cũng không khuất phục được chúng. Bếp lửa tắt rồi lại bừng cháy niềm tin và sức mạnh.
Bà con xung quanh đã giúp bà tôi dựng lại túp lều tranh trên nền đất cũ. Khi tôi chạy trốn, tôi không thể mang theo bất cứ thứ gì. Cô lại đan giỏ, dựng lều, sửa lại bệ và sắp xếp lại các kệ. Một không gian nở lại xuất hiện. Ngọn lửa lại được thắp lên trong đêm đó. Hai bà cháu đợi nồi cháo chín. Một nỗi lo canh cánh trong lòng, không biết ngày mai sẽ ra sao?
Dù đau khổ đến mấy, mẹ vẫn mạnh mẽ, quyết tâm tha thiết nói với tôi rằng nếu viết thư cho bố thì đừng kể chuyện gia đình. Chỉ cần nói rằng nhà tôi vẫn bình an, cô ấy vẫn khỏe mạnh. Ôi, cho đến ngày nay cô ấy vẫn nghĩ về đất nước. Dù đau khổ đến đâu, cô vẫn nghĩ đến sự phấn đấu. Kẻ thù càng hung bạo, lòng căm thù và quyết tâm đánh thắng quân thù của bà càng lớn. Tôi hiểu tấm lòng của cô ấy, nên tôi nói "vâng" thật to.
Rồi sớm, chiều, ngọn lửa từ đôi bàn tay chị bùng lên. Trong lòng cô có một ngọn lửa luôn âm ỉ cháy. Nó cháy hết mình luôn. Nó cháy bỏng như niềm tin bất diệt của cô. Cô ấy đã truyền ngọn lửa ấy cho tôi, thổi bùng ngọn lửa lạnh lùng trong tôi. Đó là ngọn lửa của lòng yêu nước. Đó là ngọn lửa đấu tranh, ngọn lửa của niềm tin và khát vọng vào tương lai.
Chiến tranh đã chấm dứt. Hòa bình lại đến. Niềm tin của cô đã được đền đáp. Cha mẹ tôi trở về quê hương của họ. Ngày rất xúc động. Dù cố giấu đi những giọt nước mắt hạnh phúc nhưng khóe mắt cô vẫn rưng rưng. Cô lại đi đốt lửa, nấu món gì đó đãi cả nhà, mừng ngày vui.
Cô ấy biết bao nhiêu nắng mưa trong cuộc đời, rất nhiều vất vả và rất nhiều đau đớn. Tuy nhiên, hàng chục năm nay, bà vẫn giữ thói quen dậy sớm thắp ngọn lửa ấm áp yêu thương. Không phải là tuổi già không ngủ. Là vì cô ấy muốn giữ ấm quá khứ đau buồn chứ tình yêu đó thôi. Cô muốn được tự tay mình gom góp niềm vui, làm bữa cơm độn khoai, cùng hàng xóm mừng cơm mới để nhớ lại những ngày xưa cơ cực và biết trân trọng, yêu thương họ hơn.
Ôi lạ lùng và thiêng liêng – ngọn lửa! Thật kỳ lạ vì nó không bao giờ tắt. Nó tắt rồi lại cháy lên. Cháy hàng ngay cả trong những ngày mưa gió hay se lạnh. Nó lại bùng cháy mỗi khi kẻ thù đến và cố gắng phá hủy nó. Từ đôi bàn tay cằn cỗi của mẹ đã thắp lên ngọn lửa ấm áp diệu kỳ. Nó thiêng liêng bởi nó gắn chặt với hình bóng và tình cảm ấm áp của bà ngoại dành cho tôi tất cả.
Giờ em đã đi xa, cách xa Tổ quốc trăm núi nghìn sông. Cuộc sống khổ cực, cái đói qua đi, cuộc sống mới hân hoan khắp nơi. Nhưng tôi không bao giờ ngừng nghĩ về ngọn lửa quê hương và người bà hiền của tôi. Nhưng tôi không bao giờ quên nhắc nhở mình về trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với bà ngoại, với quê hương, với đất nước.
Dân tộc ta đã sống kiên cường và sẵn sàng hy sinh quên mình để bảo vệ mảnh đất thiêng liêng, trách nhiệm của thế hệ chúng ta hôm nay là bảo vệ thành quả vĩ đại đó, làm cho đất nước ngày càng giàu mạnh. Tôi tự dặn mình phải ghi nhớ điều đó. Và truyền lại ngọn lửa kỳ lạ và thiêng liêng này cho các thế hệ mai sau.
Đóng vai người cháu kể chuyện Bếp Lửa – Văn mẫu 12
Mùa đông đã đến trên đất nước Nga, đó là lúc tôi cảm thấy buồn nhất bởi mọi thứ ở đây thật hoang vu và rợn ngợp bởi cái lạnh mà mưa và tuyết tạo nên. Sáng nay dậy sớm, co ro trong chiếc áo khoác dày cộp rồi vội vàng kéo rèm từ tầng trên của dãy nhà tập thể nhìn ra ngoài, tôi chợt thấy một làn khói bốc ra từ ống khói của khu nhà. Đằng kia, nhìn khói lam chiều, tôi chợt nhớ đến bà ngoại ở quê nhà với bao kỷ niệm buồn vui đan xen. Nghĩ đến cô, tôi chợt nhớ những lúc cùng cô ngồi bên bếp lửa hồng để sưởi ấm, vừa canh nồi bánh chưng vừa sôi đón giao thừa. Ồ! Tôi nhớ hương vị quê nhà. Cầm ly cà phê, tôi như lạc vào dòng ký ức ngày xưa. Quá khứ hiện về như một thước phim quay chậm, in dấu một thời tuổi thơ.
Hai mươi năm đã trôi qua, có lẽ kỷ niệm mà tôi không bao giờ quên, xóa nhòa trong ký ức ấy là cái năm đói rét năm Ất Dậu (1945) ấy, người chết như ngả rạ, người sống vật vờ như ma. Cả làng tôi, nhà nào cũng lâm vào cảnh đói kém kinh hoàng. Trong gia đình, bố tôi phải ra đường kéo xe ôm với thân hình gầy guộc mà cả nhà chỉ có thêm rau cháo sống qua ngày. Làng quê tiêu điều trong hương khói, nghĩ lại đến giờ sống mũi tôi vẫn cay cay, nước mắt cứ ứa ra. Nhưng theo thói quen, khi gà gáy đến tiếng thứ ba, bà tôi thức dậy. Cô lặng lẽ đốt lửa và không có gì để nấu. Cô nhìn ngọn lửa và nước mắt trào ra. Nhiều hôm bắt gặp mẹ ngồi khóc bên bếp lửa mà tôi ngây thơ không hiểu tại sao mẹ lại khóc. Vì ngây thơ nên tôi mới tin vào lời chị: 'Bà khóc vì khói cay mắt'. Tôi tò mò hỏi: 'Sao khói không cay mắt cháu'. Cô cười, nụ cười sao buồn quá! Sau đó, cô ấy ôm tôi vào vòng tay lạnh giá của cô ấy.
Những năm ấy kháng chiến bùng nổ, bố mẹ tôi rời gia đình đi theo cách mạng, bà vừa là bà nội, vừa là bố và mẹ tôi. Suốt tám năm dài đằng đẵng ấy, tôi được sống trong vòng tay yêu thương của mẹ và bên ngọn lửa đỏ mà mẹ nhóm lên mỗi sáng và tối. Tình cờ bên bếp lửa, tôi được nghe chị kể về cuộc sống của chị trong những ngày ở Huế. Đó là cuộc sống bất hạnh, khốn khổ mà cô phải chịu đựng. Rồi bên ngọn lửa ấy, tôi đã được cô dạy bao bài học làm người, nâng bước cho những ước mơ đẹp đẽ trong đời. Ánh lửa bập bùng nơi góc bếp cũng là ánh sáng giúp em học bài, làm bài. Tiếng tu hú ngân nga cùng với tiếng kể chuyện của bà, cùng với ánh lửa bập bùng Ngọn lửa ấy dường như có sức truyền cảm, mang lại hơi ấm cho tâm hồn bé nhỏ của tôi. Và mẹ trở thành chỗ dựa vững chắc cho ý thức của tôi, mẹ thay bố chăm sóc tôi thay mẹ.
Cảm ơn bạn, tôi sẽ luôn nhớ đến bạn! Nhớ bà, tôi nhớ ngày giặc vào làng. Đó là một buổi trưa hè oi ả, cả làng vắng lặng. Đột nhiên, một tiếng nổ vang trời. Rồi những tiếng la hét inh ỏi: 'Giặc được, bà con không được!'. Cô ấy chỉ kịp lấy trộm cái mũ, vội giật lấy quần áo của tôi, rồi vội vã vác tôi lên vai chạy một mạch về làng tị nạn. Giặc rút đi, hai bà cháu dắt díu nhau trở về, nhưng khi về đến làng thì một cảnh tượng hãi hùng. Làng xóm điêu tàn, nhà cửa cháy rụi, ruộng vườn tiêu điều. Cô lặng lẽ đứng trước ngôi nhà giờ chỉ còn là đống tro tàn. Có lẽ cô đang nuốt nỗi đau vào lòng. Cô ấy không khóc, nhưng tôi đã bật khóc. Tôi khóc vì thương em, thương tôi và tôi không biết hai đứa sẽ sống ở đâu? Cô ấy xoa đầu tôi an ủi, an ủi tôi bằng những lời ngọt ngào để xóa đi nỗi đau mất mát trong lòng tôi. Nhưng rồi đâu lại vào đó, được sự giúp đỡ của họ hàng, làng xóm, ông bà năm nào cũng có được căn nhà nhỏ trên nền đất cũ. Khó khăn là vậy, nhưng mỗi lần viết thư cho bố mẹ tôi, cô ấy cứ dặn: 'Đừng nói nhà em cháy, chỉ cần nói nhà vẫn bình yên là đủ rồi'. Vâng lời chị, tôi đi theo mặc dù trong lòng có nhiều thắc mắc. Sau này lớn lên tôi mới hiểu tại sao mẹ lại nói dối bố tôi, mẹ không muốn ông lo lắng, muốn ông tập trung kháng chiến. Tấm lòng vị tha, tình yêu Tổ quốc đã bao trùm lên tình yêu gia đình, tình cảm cá nhân.
Bà tôi không bao giờ đánh mất niềm tin mãnh liệt, đánh mất ngọn lửa yêu quê hương. Sớm chiều, bà nhóm lửa, thắp lên ngọn lửa không chỉ bằng than, bằng củi mà còn bằng niềm tin vào ngày đất nước được giải phóng trong trái tim mình, bằng tình yêu gia đình, tình yêu quê hương mà bà mãi mãi gìn giữ.
Cái bếp lò ấy đã gắn bó với cuộc đời bà. Mỗi sáng, mẹ dậy bật bếp, đốt lửa ấm đun nước, nấu cơm. Nhưng mãi sau này tôi mới hiểu rằng, cô không chỉ thắp lên ngọn lửa bình thường ấy mà còn thắp lên trong tôi tình yêu gia đình, tình yêu đất nước. Cô đã dạy cho tôi một tình cảm làng quê sâu lắng, thiết tha. Rồi bếp lửa bập bùng ấy đã nhen nhóm trong tôi cả một bầu trời tuổi thơ, cả một miền kí ức của những năm tháng tôi sống bên bà.
Nỗi nhớ nàng khép lại bằng nỗi buồn của tôi. Em nhớ chị da diết về tình yêu thương, về ngọn lửa thiêng liêng và về quê hương nồng nàn, ấm áp. Vì vậy tôi rất trân trọng những tình cảm mình đang có. Tháng năm khiến tôi khôn lớn và trưởng thành, những hoài bão đã đưa bước chân tôi đến những chân trời xa xôi, nhưng tôi không thể nào quên được ngọn lửa hồng nơi góc bếp bởi ở đó có tình yêu và sự hi sinh thầm lặng của mẹ. Người bà mà tôi dành cả cuộc đời để biết ơn và kính trọng, chính ở đó bà đã thắp lại cho tôi những ước mơ về một cuộc sống mới.
Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp Lửa – Văn mẫu 13
Thời tiết đã thực sự bước vào mùa đông. Thời tiết trở lạnh, nhiệt độ cũng ngày càng giảm. Học xa nhà lâu ngày khiến em luôn nhớ cô da diết. Và hình ảnh bếp lửa ngày xưa, hai đứa cùng nhau nhóm bếp. Tất cả đều là một phần kí ức đẹp không bao giờ quên đối với tôi.
Từ khi tôi còn nhỏ, vì hoàn cảnh, bố mẹ tôi không thường xuyên ở nhà. Vì tham gia kháng chiến chống Pháp. Vậy là tôi được sống với cô ấy. Bà đã thay cha mẹ tôi chăm sóc và nuôi nấng tôi nên người. Đó hẳn là những năm tháng vô cùng gian khổ, vất vả. Chiến tranh liên tiếp xảy ra, rồi nạn đói năm 1945. Tuổi thơ tôi đã quen với mùi khói khi mới 4 tuổi. Bạn sẽ không thể tưởng tượng được hình ảnh đường phố đầy rẫy người chết, ai cũng gầy gò, đen đúa. Đói rét bao trùm khắp nơi.
Trong tám năm ròng rã, tôi và bà nhóm lửa. Sống với bà, bà dạy tôi học, dạy tôi việc nhà và nhiều thứ khác. Mẹ luôn dành cho tôi những tình cảm tốt đẹp nhất. Nhớ những hôm trời mưa làm ướt củi, việc nhóm bếp trở nên vô cùng khó khăn. Tôi vẫn ngồi đó với cô ấy. Cô ấy kể cho tôi nghe chuyện khi cô ấy ở Huế. Rồi tiếng tu hú trên cánh đồng. Hình ảnh đó sẽ luôn ở trong tim tôi.
Giặc đến, phá làng, phá làng, vào làng đốt nhà, lửa cháy khắp nơi. Cũng may nhờ có hàng xóm nên bà và cháu gái mới có được túp lều che mưa nắng. Tôi rất muốn viết một lá thư cho bố mẹ tôi về bi kịch này. Nhưng cô ấy không muốn và nói với tôi rằng “Bố mẹ em ở chiến khu còn bận nhiều việc, anh viết thư đi, đừng kể này nọ, chỉ nói ở nhà thôi”. Dù chịu nhiều gian khổ nhưng bà không muốn các con phải buồn lòng vì mình. Hiểu được tấm lòng của cô ấy khiến tôi càng yêu cô ấy hơn. Tôi luôn muốn cô ấy cười thật nhiều và không bao giờ ốm đau hay bệnh tật. Để cô ấy có thể sống lâu bên cạnh tôi.
Mấy chục năm nay bà vẫn thức khuya miệt mài làm việc. Bếp lò dường như đã trở thành người trợ thủ cùng chị chia sẻ bao câu chuyện.
Hình ảnh bếp lửa luôn thiêng liêng trong lòng em. Lò sưởi tượng trưng cho tình yêu ấm áp của cô. Ngoài ra, nó còn gợi lên trong trí nhớ tôi hình ảnh khi mẹ nấu ăn. Cô nhóm niềm vui, tình yêu thương cho mọi người. Đồng thời, anh cũng là người đã truyền niềm tin và hy vọng lớn lao cho tôi.
Bây giờ, khi tôi đã trưởng thành, tôi đang thích nghi với một môi trường mới. Một môi trường hiện đại với những trang thiết bị tiện nghi nhất. Có bếp ga, bếp điện, “có khói tàu lửa, trăm nhà có lửa, niềm vui trăm phương” luôn hiện hữu. Rồi tôi luôn nhớ về hình ảnh bếp lửa thân thương thuở ấu thơ. Bếp lửa nuôi em lớn khôn, sưởi ấm tình cảm và ước mơ. Bếp lửa đã đồng hành cùng mẹ trong quá trình nuôi dạy tôi nên người. Nghe cô dạy kể chuyện. Và tôi tiếp tục phát triển. Bây giờ tôi ước được ở bên cạnh cô ấy, ôm cô ấy thật lâu. Và được nghe cô kể chuyện như hồi nhỏ. Chà, thật tuyệt làm sao.
Dù đã đi học xa nhà nhưng em vẫn không quên được hình ảnh đó. Nhiều lúc tôi vẫn tự hỏi “Không biết, mai mẹ đã vào bếp chưa?”.
Xa nhà, tự chăm sóc bản thân, tôi thấy thương em nhiều hơn. mong rằng cô luôn khỏe mạnh và hạnh phúc. Chắc chắn tôi sẽ không bao giờ quên hình ảnh cô và ngọn lửa đã nuôi tôi nên người như ngày hôm nay.
Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp Lửa – Văn mẫu 14
Có nơi chốn là nơi ra đi, cũng là nơi trở về và là điểm thuận lợi vững chắc cho con người trong hành trình cuộc đời. Nơi đó là nhà. Ở đó, với tôi, có một người bà yêu dấu. Và rồi khi trưởng thành, được sống và làm việc tại Liên Xô, tôi lại bồi hồi, xao xuyến nhớ về người bà kính yêu gắn liền với hình ảnh bếp lửa….
Tôi nghĩ lại hình ảnh ngọn lửa hồng ấy…Ngọn lửa có lẽ không còn xa lạ trong cuộc sống của mỗi chúng ta. Một ngọn lửa cô nhóm lên mỗi sáng. Ngọn lửa được đôi bàn tay gầy guộc của mẹ nâng niu, che chở để cháy sáng…
Dường như ngọn lửa thân thương ấy, tôi đã quen với mùi khói từ thuở lên bốn. Năm ấy gắn liền với nạn đói toàn quốc - 1945 với hình ảnh những con người chết đói nằm như ngả rạ. Cha tôi phải làm việc chăm chỉ. Cho đến bây giờ, tôi vẫn còn cay mũi khi nghĩ lại những năm tháng đó…
Rồi tám năm dài đằng đẵng, tôi bên nàng, cùng nàng thắp lên ngọn lửa hồng. Khi tiếng trẻ khóc ngoài đồng xa báo hiệu hè về, bà ơi, bà có còn nhớ không? Tôi còn nhớ, khi chị Tư khóc nó gắn liền với những câu chuyện chị hay kể về những ngày chị ở Huế. Tiếng hú tha thiết kêu gào không dứt… Đó là những ngày kháng chiến, bố mẹ bận công tác xa không có nhà. Tôi sống với bà, bà dạy tôi cách làm việc, tôi được bà dạy dỗ. Mẹ đã thay cha mẹ nuôi nấng tôi khôn lớn trưởng thành.
Rồi năm năm ngôi làng bị thiêu rụi, xóm giềng bốn phía trở về hoang tàn. Với tình làng nghĩa xóm. mọi người đã giúp cô dựng lại túp lều tranh. Vẫn vững tin, lại càng lo lắng cho bố mẹ tôi, chị liền nói với tôi:
– Bố đang ở chiến khu, bố còn rất nhiều việc phải làm. Anh có viết thư đâu, không kể chuyện này chuyện kia, chỉ nói nhà cửa yên ấm để bố mẹ yên tâm làm việc!
Rồi hàng ngày, sớm chiều, bà lại tiếp tục với công việc thắp lửa hàng ngày. Ngọn lửa yêu thương luôn nhen nhóm trong đáy lòng, ngọn lửa chứa đựng niềm tin bền bỉ...
Cuộc sống của cô luôn khó khăn như vậy. Nuôi con đã khó, ngày xưa nuôi cha cũng khó. Mấy chục năm rồi, đến nay mẹ vẫn giữ thói quen dậy sớm, nhóm lửa ấm, cả nồi sắn cùng tình yêu của mình vun đắp cho em biết bao ước mơ, để giờ đây em được đi du học ở đất nước Xô Viết. Bếp lửa của bà cũng thắp lên tình làng nghĩa xóm. Ôi chiếc bếp của bà, giản dị mà thần thánh biết bao!
Giờ tôi đã đi xa, cách cô ấy nửa vòng trái đất. Một cuộc sống mới đã mở ra trước mắt tôi. Có khói trăm tàu, lửa trăm nhà, vui trăm phương. Nhưng tôi vẫn không thể quên tự nhắc mình “Sáng sớm mai đã bật bếp chưa?”.
thưa bà! Tôi yêu cô ấy và tôi cũng yêu cô ấy. Cuộc sống hiện đại dễ làm lòng người thay đổi nhưng hình ảnh người bà hằng ngày thắp lên ngọn lửa yêu thương sẽ không bao giờ phai mờ trong tâm trí em. Cuộc sống nơi phương xa này tuy vui thật, nhưng khi niềm vui vơi đi, nhất là khi chỉ còn một mình, anh lại nghĩ về em trên mái tranh, nơi em kể chuyện, nơi dạy em học bài, nơi hun đúc thành quả. con người anh, nơi có ngọn lửa hồng thắp lên trong giấc mơ.
Đóng vai người cháu kể chuyện Bếp Lửa – Văn mẫu 15
Tôi đang du học ở một đất nước xa xôi, cách Việt Nam hàng nghìn cây số, nơi xứ lạnh bỗng thèm hơi ấm từ ngọn lửa của người bà thân yêu, ngọn lửa bà thắp mỗi sớm mai.
Tuổi thơ tôi gắn liền với bà, ngọn lửa bập bùng sớm mai, ngọn lửa gắn liền với hình ảnh người phụ nữ Việt Nam cần cù, chịu thương chịu khó, giàu đức hi sinh. Bà tôi cũng là một người phụ nữ tương tự, ký ức của bà gắn liền với ký ức tuổi thơ về nạn đói năm 1945 khiến hàng triệu người chết, gia đình tôi cũng phải quyết tâm đi tìm cái ăn để vượt qua thời kỳ đen tối. Đêm ấy, đến giờ nghĩ lại, sống mũi tôi vẫn cay xè.
Tôi có nhiều kỷ niệm đẹp với bà, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, bố mẹ tôi phải đi công tác ở chiến khu, bà ở nhà tần tảo nuôi dạy tôi khôn lớn, bà đã thắp lửa cho giữ ấm. cho tôi mỗi khi trời trở lạnh. Cô thương yêu đùm bọc, giúp đỡ bố mẹ đi làm ăn xa.
Một kỷ niệm mà tôi vẫn không thể quên đó là lần giặc càn phá làng, phóng hỏa đốt sạch tài sản của mọi người trong làng, khi giặc đi qua thì mọi thứ đều còn lại. Trong hoàn cảnh tương tự, cô ấy vẫn dặn tôi đừng nói với bố mẹ để họ yên tâm công tác. Mẹ không chỉ cần cù, giàu tình thương mà còn giàu đức hi sinh, là hậu phương vững chắc cho bố mẹ yên lòng, với tôi mẹ là người mẹ Việt Nam trung hậu, dũng cảm, kiên cường.
Ngọn lửa của cô không chỉ dùng để sưởi ấm mà còn chứa đựng tình yêu thương luôn cháy bỏng trong trái tim em, cô là người đại diện cho thế hệ cha anh giữ lửa và truyền lửa cho thế hệ mai sau, hình ảnh của một người bình dị và thân thuộc. bếp lửa như chứa đựng một sự cao quý thiêng liêng lạ lùng.
Theo thời gian, tôi đã trưởng thành, tìm kiếm những con đường mới, những chân trời mới, cuộc sống mới đã có “khói trăm chuyến tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm phương”, nhưng trong lòng tôi vẫn luôn chất vấn. "Ngày mai bạn sẽ đốt lửa chứ?" Bếp lửa của bà là kí ức tuổi thơ của em, là tình bà cháu nuôi em khôn lớn, hình ảnh ấy sẽ mãi cháy trong lòng em - ngọn lửa của tình yêu gia đình, tình yêu quê hương đất nước.
Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp Lửa – Mẫu 16
Nhiều năm đã trôi qua, tôi đã từng là một đứa trẻ, bây giờ tôi đã trưởng thành và là một sinh viên luật ở Nga. Thời tiết những ngày này se lạnh, thật thoải mái nhất khi được ngồi bên đống lửa sưởi ấm sau một ngày dài. Bếp lửa gợi trong tôi biết bao kỉ niệm, của những ngày thơ ấu, những năm tháng chiến tranh bên bà ngoại, người đã ở bên tôi bao năm, người tôi kính trọng nhất.
Hình ảnh hố lửa gợi lên trong em nỗi nhớ da diết. Một buổi sớm thời tiết thay đổi, hơi lạnh phương Bắc ùa vào căn nhà nhỏ. Và cũng là lúc bà thức dậy thắp bếp, ngọn lửa chất chứa hơi ấm và tình yêu thương của bà dành cho đứa cháu. Quãng thời thơ ấu với bà là biết bao vất vả, thiếu thốn, khổ cực.
Tôi đã ở bên cô ấy có lẽ từ khi còn rất nhỏ, đến nỗi tôi không nhớ chính xác nó bắt đầu từ khi nào. Chỉ nhớ rằng khi tôi lên bốn, mùi khói bếp đã trở nên quen thuộc. Đó là năm sau ngày giải phóng, là năm mà nạn đói hoành hành, cướp đi sinh mạng của biết bao người. Đối với tôi, đó là một thời gian rất khó khăn. Không đủ ăn, sống trong sợ hãi, phải tiết kiệm từng miếng ăn. Cha tôi phải đi đánh xe bằng con ngựa vừa ốm vừa đói. Số tiền kiếm được không nhiều nhưng vẫn đủ trải qua mỗi ngày. Những ngày đó, ngọn lửa đối với tôi như một nỗi sợ hãi, khói làm mờ mắt tôi, và tôi ngồi với cô ấy bên đống lửa. Đến bây giờ khi nghĩ lại, sống mũi tôi cay cay, những kỷ niệm đó vừa là kỷ niệm nhưng cũng khiến tôi nghẹn ngào khi nghĩ lại.
Tám năm có lẽ không phải là thời gian dài nhưng với tôi như vậy là quá đủ để bếp lửa trở thành hình ảnh gắn liền với tuổi thơ của tôi với bà, cùng bà bếp núc bếp núc. Tôi còn nhớ tiếng chim tu hú ngoài đồng, âm thanh vang vọng, nghe tha thiết làm sao. Lúc đó cô kể cho tôi nghe về những ngày ở Huế, cô đã sống như thế nào, tôi vẫn còn nhớ cho đến tận bây giờ.
Bố mẹ tôi bận đi công tác không về nên trong thời gian đó tôi ở với bà, sống trong sự chăm sóc, nuôi nấng của bà. Cô dạy tôi học, kể cho tôi nghe những câu chuyện, những lời nói của cô rất bổ ích và ý nghĩa. Sống với bà, từ nhỏ tôi đã có ý thức tự lập, sớm biết chăm sóc, đỡ đần bà. Tôi thương bà lắm, ngày xưa tôi vất vả nuôi bố tôi, giờ tôi phải chăm cháu dù tuổi đã khá nhưng bà vẫn thương tôi lắm.
Giặc Pháp đi rồi giặc Mỹ lại đến, bao nhiêu tang thương cứ ập đến. Những kẻ hung ác đã đốt cháy ngôi làng. Chúng tôi mất nhà, phải giúp nhau cất túp lều tranh. Lúc đó tôi đã đủ lớn để hiểu hoàn cảnh của cô ấy. Vất vả là thế nhưng mẹ luôn dặn tôi: “Bố đang ở chiến khu, bố còn có việc. Con viết thư đừng kể này nọ, chỉ nói nhà yên bề gia thất”. Lúc đó tôi còn hỏi tại sao phải làm như vậy. Vì lúc đó tôi rất mệt mỏi với cuộc sống này, tôi muốn kể hết mọi chuyện với bố, nói với lòng mình rằng tôi đã cố gắng rất nhiều nhưng tại sao bố vẫn không biết. Bây giờ nghĩ lại, sao lúc đó tôi ích kỷ quá, không nghĩ bố mẹ còn phải lo chiến sự căng thẳng. Thật vậy, lời nói của cô ấy luôn đúng.
Dù sớm hay chiều, mẹ đều nhóm bếp. Hình ảnh của cô luôn gắn liền với hình ảnh của bếp lửa, cô là người giữ ngọn lửa ấm áp và tỏa sáng trong mỗi gia đình, để những đứa cháu như tôi lớn lên không cảm thấy cô đơn vì không được cha mẹ yêu thương. bảo trọng. Ngọn lửa ấy bà luôn giữ trong tim, ngọn lửa chất chứa niềm tin một ngày đất nước sẽ được giải phóng, như tiếp thêm sức mạnh cho tôi trong cuộc sống.
Cuộc đời cô còn dài, cô đã không biết bao nhiêu lần chịu đựng gian khổ. Mấy chục năm nay, bà vẫn giữ một thói quen cũ, đó là dậy sớm. Cô dậy sớm nhóm lửa, ngọn lửa lan tỏa khá ấm áp và tình người. Bao nhiêu năm, khoai sắn, xôi nóng dẻo thơm, được bà đong đầy tình cảm tuổi thơ. Hương vị ấy sao quen quá, thân thương quá. Cùng nàng chia sẻ vui buồn bao nhiêu năm, tôi không bao giờ quên được.
Giờ tôi đi rồi. Ở xứ lạ này trăm con tàu, trăm niềm vui nhưng hình ảnh bếp lửa vẫn thiêng liêng lắm. Nó làm tôi nhớ đến người bà đã gắn bó với cả tuổi thơ của mình. Mỗi ngày bà thắp lên ngọn lửa cũng là thắp lên niềm vui, sự sống, chút tình yêu thương cho bà cháu và mọi người. Không chỉ bằng chất đốt thông thường, ngọn lửa ấy còn được thắp lên bằng chính ngọn lửa mà cô luôn giữ trong tim, của sức sống và niềm tin, thiêng liêng một cách kỳ diệu.
Hương khói thoang thoảng, sống mũi cay cay. Kỉ niệm chợt ùa về trong gió đông se lạnh. Tôi nhớ cô, nhớ bếp lửa, vui buồn lẫn lộn. có lẽ bếp lửa đã trở thành một điều rất quan trọng trong cuộc đời tôi, mà tôi không thể nào quên được. Ôi lạ lùng và thiêng liêng – ngọn lửa.
Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp Lửa – Văn mẫu 17
Ở một nơi xa xôi của Châu Âu, nơi có mùa đông lạnh giá, ngồi bên bếp lửa, hơi ấm của ngọn lửa phả vào mặt làm tôi nhớ đến ngọn lửa nhỏ buổi sớm và hình bóng của bà ngoại trong tuổi thơ tôi. Hình ảnh ngọn lửa nhỏ lẩn khuất trong sương sớm và người bà hết sức yêu thương khiến nỗi nhớ trong tôi không thể nguôi ngoai.
Tôi sinh ra trong thời đói kém, nhân dân ta đang chống thực dân Pháp. Đất nước chìm trong chiến tranh và khủng hoảng. Cuộc sống khó khăn, áp bức nhất là người nông dân. Năm tôi bốn tuổi, thiên tai, hạn hán khiến sản xuất nông nghiệp thất bát, thất thu. Cái đói len lỏi từ gia đình này sang gia đình khác. Tiếng người chết kêu khóc khiến khung cảnh trở nên u ám.
Bố mẹ tôi bươn chải kiếm sống, bà ở nhà chăm sóc tôi. Cả tuổi thơ tôi chỉ ở bên bà. Mỗi lần đốt lửa, ngồi bên bếp lửa ấm áp vô cùng. Khói bếp làm cay mắt, chảy nước mắt, nước mũi. Nhớ lại những hình ảnh đó mà tôi thấy cay cay nơi sống mũi. Cha mẹ theo cách mạng kháng chiến chống giặc. Tôi đã cùng bà vượt qua biết bao khó khăn và lớn lên trong vòng tay yêu thương của bà ngoại. Thời gian trôi qua, cuộc chiến ngày càng khốc liệt. Bố mẹ không về được. Giặc tấn công vào làng, chúng cướp phá, đốt phá hết. Họ gieo rắc nỗi sợ hãi cho nhiều người dân vô tội.
Những người hàng xóm giúp bà tôi dựng lại túp lều tranh, dựng lại từ đống đổ nát, trong tâm trí ai cũng không biết ngày mai sẽ ra sao? Dù vất vả nhưng mẹ vẫn căn dặn nếu viết thư cho bố thì không được kể chuyện gia đình. Hãy chắc chắn rằng cô ấy khỏe mạnh. dù thế nào đi nữa, cô ấy vẫn một mình nghĩ về cuộc chiến, hy vọng rằng bố mẹ tôi có thể yên nghỉ trong công việc của họ. Cô đã thắp lên ngọn lửa như đốt cháy trong tôi ngọn lửa yêu nước, niềm tin và khát vọng vào tương lai.
Hòa bình trở lại với chúng tôi, cha mẹ tôi trở về quê hương được đoàn tụ. Cô hạnh phúc đến nỗi nước mắt lưng tròng. Dù mưa hay nắng, mấy mươi năm qua, bà vẫn giữ thói quen dậy sớm nhóm lửa, ngọn lửa của tuổi thơ tôi. Ôi lửa thiêng lạ lùng, tắt rồi lại cháy dữ dội. Bếp lửa nhắc em luôn nhớ đến người bà đã yêu thương hi sinh vì con, vì đất nước.
Dù đi xa, hưởng cuộc sống sung túc, em vẫn không quên hình ảnh bếp lửa, người bà hiền và luôn nhắc nhở em trách nhiệm với bà cũng như với quê hương, đất nước.
***************************
Với 20 bài văn mẫu Đóng vai người cháu kể lại bài thơ Bếp lửa được các thầy cô chia sẻ trên đây. Hi vọng sẽ giúp những ai có thêm tài liệu tham khảo, thêm nhiều ý tưởng để hoàn thiện bài viết của mình hay hơn, sâu sắc hơn. Chúc các em học tốt và đạt điểm cao khi làm bài tập làm văn kể lại bài thơ Bếp lửa.
Đăng bởi: Cmm.edu.vn
Thể loại: Giáo dục
Bản quyền bài viết thuộc về trường THPT TP Sóc Trăng. Mọi sao chép đều là gian lận!
Nguồn chia sẻ: Trường Cmm.edu.vn (c3kienthuyhp.edu.vn)
Xem thêm: soạn sử 10 kết nối tri thức với cuộc sống
Bạn xem bài Đóng vai người cháu kể lại bài thơ Bếp lửa lớp 9 ngắn gọn và hay nhất Các bạn phát hiện ra đã khắc phục được chưa, nếu chưa hãy comment thêm về Đóng vai người cháu kể lại bài thơ bếp lửa lớp 9 ngắn và hay nhất dưới đây để trường THPT Kiến Thụy thay đổi & hoàn thiện nội dung tốt hơn nhé các bạn! Cảm ơn các bạn đã ghé thăm Website: c3kienthuyhp.edu.vn của trường THPT Kiến Thụy
Nhớ dẫn nguồn bài viết này: Đóng vai người cháu kể lại bài thơ Bếp lửa lớp 9 ngắn gọn và hay nhất của website c3kienthuyhp.edu.vn
Thể loại: Văn học
Bình luận