phân tích 2 khổ đầu đây thôn vĩ dạ

Phân tích hai khổ thơ đầu Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử Gồm 14 bài văn mẫu dưới đây không chỉ giúp các em học sinh lớp 11 có thêm nhiều ý tưởng hay cho bài viết của mình mà còn biết cách cảm nhận vẻ đẹp của bức tranh làng quê đất nước, cũng như giọng nói của một người con. Yêu đời, yêu người.

Phân tích 2 khổ thơ đầu của bài Đây thôn Vĩ Dạ đã đưa người đọc mở rộng tầm mắt, hiểu biết về thiên nhiên và con người xứ Huế. Bên cạnh đó ta cũng phần nào hiểu được những tâm tư, nỗi buồn sâu kín trong lòng tác giả. Bên cạnh bài văn phân tích khổ thơ 1, 2 Đây thôn Vĩ Dạ, các em cũng có thể xem thêm: phân tích khổ thơ 1 Đây thôn Vĩ Dạ, phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ.

Bạn đang xem: phân tích 2 khổ đầu đây thôn vĩ dạ

Lập dàn ý phân tích 2 khổ thơ đầu của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

phác thảo số 1

1. Mở bài

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một kiệt tác tiêu biểu của Hàn Mặc Tử. Hai khổ thơ đầu của bài thơ như một khúc ngâm trữ tình đẹp đẽ, giàu sức gợi.

2. Cơ thể

+ Câu hỏi tu từ tha thiết, vừa như trách móc, vừa như mời gọi.

+ Hàng cau thẳng tắp vươn mình đón nắng -> nét thanh khiết, tươi mát

+ Cành non trong màu xanh của lá tràn đầy sức sống, trong sáng và tinh khiết

+ Vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng, thanh tao, nhã nhặn của người con gái Huế hiện lên thật duyên dáng

+ Dòng nước cũng được nhân hóa với nỗi lòng “buồn” bồng bềnh

+ Dòng sông soi bóng bởi ánh trăng mờ ảo, con thuyền thong thả nằm trên bến sông Thương

+ “Đêm nay có đưa trăng về kịp” - câu thơ như một lời tâm sự, một câu hỏi nhưng cũng là một sự trông đợi, hi vọng đưa ánh trăng trở lại đúng lúc.

3. Kết luận

Khung cảnh mang theo cảm xúc, dư vị hoài cổ của nhà thơ với cái nhìn tinh tế, sâu sắc, chỉ qua hai khổ thơ ta thấy được tình yêu tha thiết của nhà thơ đối với cuộc sống và thiên nhiên.

dàn ý số 2

1. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn trích

2. Thân bài:

Câu 1: Cảnh vườn thôn Vĩ và tình người tha thiết:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Hàng cau nắng mới ngước nhìn.
Vườn ai xanh như ngọc
Lá tre che ngang hoàn chỉnh mặt chữ.

+ Câu hỏi tu từ mở đầu mang nhiều sắc thái: lời tự vấn, lời quở trách nhẹ nhàng, lời mời gọi ân cần.

+ Ba câu sau gợi lên vẻ đẹp sơn thủy hữu tình của thôn Vĩ trong khoảnh khắc bình minh: cảnh vật thanh khiết, trong trẻo, xanh tươi dưới ánh nắng ban mai; người kín tiếng, tốt bụng. Đằng sau bức tranh phong cảnh ấy là một tâm hồn nhạy cảm, yêu thiên nhiên, tha thiết con người và nỗi niềm trăn trở của tác giả.

Khổ 2: Cảnh trời, mây, sông và nỗi đau cô đơn, chia ly:

Gió nối tiếp gió, mây nối tiếp mây,
Nước buồn, hoa ngô đồng...
Thuyền ai cập bến sông trăng kia,
Cõng trăng đêm nay?

+ Hai câu đầu bao quát toàn cảnh với hình ảnh gió mây ngăn cách đôi bên, “nước chảy buồn, hoa ngô đồng đung đưa” gợi một nỗi buồn cô đơn.

+ Hai câu sau tả cảnh dòng sông trong đêm trăng lung linh, huyền ảo, vừa thực vừa mộng. Đằng sau cảnh vật là tâm trạng đau đớn, trăn trở và khát khao cháy bỏng của nhà thơ.

*Nghệ thuật:

– Ngôn từ chọn lọc, hình ảnh độc đáo, giàu sức gợi, có sự đan xen giữa thực và ảo.

Sử dụng hiệu quả các biện pháp nghệ thuật: so sánh, nhân hóa, ẩn dụ.

- Câu hỏi tu từ phù hợp với tâm trạng.

– Giọng điệu khi tha thiết, khi đắm say, khi khắc khoải, buồn bã

3. Kết luận:

Đoạn thơ kết tinh sự sáng tạo và phong cách nghệ thuật độc đáo của Hàn Mặc Tử, thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, yêu cuộc sống tha thiết của nhà thơ.

Phân tích 2 khổ thơ đầu Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu 1

Khi nhận xét về những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ Mới, nhà phê bình văn học Đỗ Lai Thúy đã viết “Nếu Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính là dòng lãng mạn thuần khiết, nếu Xuân Diệu và đặc biệt là Huy Cận, là dòng lãng mạn kết thành chùm tượng trưng. yếu tố… thì Hàn Mặc Tử là sự hài hòa của lãng mạn, kỳ ảo, thậm chí siêu thực”. Thật vậy, mặc dù cuộc đời của Hàn Mặc Tử ngắn ngủi và chịu nhiều đau thương, tuyệt vọng nhưng nhìn vào thơ anh, người ta vẫn thấy chất chứa trong đó những cảm xúc yêu đời mãnh liệt. tê liệt đến mức quằn quại và đau đớn. Ngoài ra, điểm khác biệt trong thơ Hàn Mặc Tử là chất lãng mạn pha lẫn với thể thơ Đường luật xưa cũ, cùng với sự phá cách sáng tạo trong nghệ thuật, mang đến cho người đọc những vần thơ độc đáo, ấn tượng. bức tượng. Đọc thơ Hàn Mặc Tử, người ta thấy vẻ đẹp lãng mạn, trong sáng, thuần khiết thực sự nhưng cũng có những hình ảnh dung dị, điên rồ, siêu thực khiến người đọc phải băn khoăn, suy nghĩ. về hồn thơ lạ lùng nhất của thơ Mới. Đây Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ hay nhất của Hàn Mặc Tử, là tác phẩm xuất sắc hàng đầu của phong trào Thơ mới, thể hiện gần như toàn bộ phong cách sáng tác của ông, trong đó hai khổ thơ đầu người ta thấy một Hàn Mặc Tử có hồn. mà yêu đời, yêu cuộc sống sâu sắc qua bức tranh quê trong lành, trữ tình.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Hàng cau nắng mới ngước nhìn.
Vườn ai xanh như ngọc
Lá tre che ngang mặt chữ hoàn chỉnh.”

Hàn Mặc Tử mở đầu tác phẩm bằng một câu hỏi mở rất nhẹ nhàng, rất Huế, mang cảm xúc lắng đọng của một bức tranh quê thanh bình và gợi “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Chủ ngữ “anh” trong câu thơ khiến người đọc không khỏi ngỡ ngàng, phải chăng là câu hờn dỗi, trao duyên của một cô gái Huế với một chàng trai phong lưu. bẽn lẽn không chịu bày tỏ sự cảm thông, bỏ mặc chị chờ đợi. Rồi cũng có thể là một lời mời dễ thương của một người con xứ Huế, muốn một người bạn phương xa một vài lần được về thăm quê hương thơ mộng này. Nhưng rồi, nếu nhìn ở một góc độ khác, có lẽ câu hỏi “Sao em không về thăm thôn Vĩ?” là lời tác giả đang tự vấn, tự nhắc mình về một lần về thăm thôn Vĩ sau bao nhiêu năm xa cách. năm xa. Hai chữ “không về” gắn liền với quãng đời đau khổ của Hàn Mặc Tử, đáng thương hơn, nó là một ẩn ý về những linh cảm chẳng lành của nhà thơ khi mắc phải căn bệnh phong. , tuyệt vọng vì không thể trở lại Huế. Người ta chỉ có thể nhớ về thôn Vĩ, nhớ về người mình yêu trong những kỉ niệm đẹp nhất.

Có thể nói, câu hỏi tu từ đầu bài thơ không chỉ là nhịp cầu mở ra bức tranh xứ Huế mà còn bộc lộ sâu sắc những trăn trở của tác giả về mảnh đất cố đô. Ở nơi ấy có tình yêu, có cuộc sống và có người con gái mà bao thi nhân hằng mong ước, chỉ tiếc rằng tất cả đã trở thành hư không trước nghịch cảnh của bệnh tật. Trong Nỗi nhớ xứ Huế, Hàn Mặc Tử đã dùng những câu thơ chân chất, đẹp đẽ để gợi lên bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ nên thơ, trong trẻo và tràn đầy sức sống. Bức tranh mở đầu bằng hình ảnh “nắng” được lặp lại hai lần trong câu thơ:

“Hàng cau nắng mới ngẩng mặt lên”

Đó là buổi bình minh rực rỡ, ánh sáng tràn ngập khắp nơi, chập chờn, xen kẽ qua từng tán cau xanh. Hàn Mặc Tử vẽ từng nét hiện thực mượt mà, giàu sức gợi trong bức tranh quê buổi sớm, trên nền sáng ấm áp của nắng mới, trên đó là hàng cau thẳng tắp, xanh tươi, giản dị. Hình ảnh “hàng cau đầy nắng” là hình ảnh mà Hàn Mặc Tử dành riêng cho xứ Huế, bởi cây cau là biểu tượng đặc trưng của vùng đất cố đô, luôn vươn mình mạnh mẽ trên nền trời xanh thẳm, đón những tia nắng ấm áp. Áp lực đầu tiên trong ngày hoàn toàn. Khung cảnh từng vòm lá cau xanh mướt tắm mình trong nắng vàng lấp lánh sương mai ẩn hiện khiến lòng người thêm khoan khoái, vui tươi, mở ra một bức tranh quê trong lành, thơ mộng. “Nắng mới mọc” là những từ ngữ giản dị mà Hàn Mặc Tử viết về buổi bình minh, đó là ánh nắng ban mai trong lành, dịu dàng, không phải là cái nắng chói chang ban trưa mà là những tia nắng chói chang. lần đầu tiên sau một đêm dài, trong trẻo, ấm áp tràn đầy sức sống, là biểu tượng của sự khởi đầu tươi mới. Nghĩ xa hơn hình ảnh “nắng mới” có lẽ là ẩn dụ cho tâm hồn nghệ sĩ khi cầm trên tay tấm bưu ảnh của cố nhân, một cảm xúc dịu dàng và đầy hi vọng.

Trong không gian tràn ngập nắng mới, là sự hiện diện của “vườn ai”, một khu vườn với vẻ trù phú, tươi tốt, mập mạp ở mọi ngóc ngách qua hai chữ “ướt át”, đầy gợi cảm. Bên cạnh đó, biện pháp so sánh “xanh như ngọc” cũng mang đến vẻ đẹp thực nên thơ cho bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ Dạ, khiến người đọc dễ liên tưởng đến hình ảnh một vườn Huế xanh non, từng tán lá còn nguyên vẹn. sương đọng tắm mình trong ánh nắng ban mai dịu dàng, mang lại cảm giác thật trong trẻo, ngọc bích và tươi mát. Đặc biệt với từ “ai” trong “vườn ai” đã gợi ẩn chứa chất trữ tình, làm tăng thêm sức sống, sự hòa hợp của con người với thiên nhiên tươi đẹp. Đồng thời, mở đầu bài thơ “Lá tre che mặt phông” gợi lên vẻ đẹp của con người xứ Huế chân chất, nhân hậu và nồng hậu. Phong cách “thơ họa thư họa”, lấy vẻ đẹp mỏng manh, giản dị của lá trúc để làm nổi bật vẻ đẹp yêu kiều, dịu dàng của khuôn mặt con người. Hàn Mặc Tử nhớ về con người Huế với vẻ đẹp dịu dàng, đan xen với những hoài niệm xa xăm về một người phụ nữ Huế với những phẩm chất nổi bật, thủy chung, dịu dàng và một khuôn mặt xinh đẹp, nhân hậu. .

Sau những rung cảm yêu đời, lạc quan từ bức tranh thiên nhiên rực rỡ, tràn đầy năng lượng, Hàn Mặc Tử tiếp tục đưa người đọc trở về với bức tranh thiên nhiên cảnh khuya, với cảnh thuyền, cảnh trăng, và dòng sông Hương êm ả, tĩnh lặng. Từ khung cảnh ngập tràn ánh sáng của buổi bình minh, đến khung cảnh của đêm tối, người ta đã tinh tế nhận ra sự chuyển đổi cảm xúc của tác giả từ niềm vui tràn trề trong cơ thể, sang sự lo lắng, bấp bênh, nhiều lo lắng, hoang mang trước thiên nhiên hoang vắng lạnh giá.

“Gió nối tiếp gió, mây nối tiếp mây,
Nước buồn, hoa ngô đồng...
Thuyền ai cập bến sông trăng kia,
Cõng trăng đêm nay?”

Hàn Mặc Tử viết về cảnh mây và gió, đó là những thứ luôn đi cùng nhau, mây di chuyển nhờ gió, dường như chúng luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nhưng khi đọc câu thơ “Gió đi theo gió, mây đi theo mây” cũng là cảnh gió và mây nhưng lại có vẻ tách biệt, ngược chiều gợi sự chia ly, đứt đoạn mà đối với Hàn Mặc Tử đó là sự chia ly của tác giả với thế giới, những linh cảm đau đớn trước một căn bệnh hiểm nghèo. Đặc biệt, thể thơ tả cảnh đóng khung khi tác giả lặp lại hai lần từ “mây” và “gió”, ngắt nhịp 4/3 ngắt câu thơ làm đôi mang đến sự thất vọng và cô đơn khó tả. Dòng sông Hương vốn hàng nghìn năm lịch sử vẫn êm đềm, lặng lẽ chứng kiến ​​biết bao biến cố đau thương của dân tộc, không còn bỡ ngỡ trước những đổi thay của thế cuộc, nhưng khi đi vào thơ Hàn Mặc Tử, dòng sông dường như để chở bao cảm xúc dạt dào của nhà thơ qua hai chữ “buồn nước”. Đọc thơ Hàn Mặc Tử, ta tưởng như tác giả đang đứng trước dòng sông Hương, mắt nhìn xa xăm, lòng man mác một nỗi buồn vô tận đang lan tỏa khắp không gian, thật đúng với câu “Cảnh nào cảnh nấy”. đây? Cảnh không mặc nỗi buồn/ Người buồn có vui bao giờ” của Nguyễn Du. Ngoài ra, hình ảnh “hoa ngô đẻ” khiến người đọc hiểu sâu sắc hơn tình cảm của nhà thơ, hoa ngô đồng vốn không màu, không vị, tàn úa trong đất trời, là ẩn dụ sâu sắc cho kiếp người bạc mệnh. thê lương, lặng lẽ tồn tại như một chiếc bóng cô đơn, lẻ loi giữa cuộc đời, chỉ biết mặc cho dòng đời xô đẩy và suy nghĩ, nhưng thật xót xa cho kiếp “bông ngô đồng”. Ngoài ra, cả bài thơ “Nước buồn hoa ngô nằm” đã mở ra một không gian bao la, vô tận nhưng không có hơi ấm, chỉ có sự lạnh lẽo, u ám bao trùm, xóa nhòa đi mọi vẻ đẹp. rực rỡ với bao mộng tưởng mà tác giả gợi lên trong khổ thơ đầu.

Nhấn mạnh sự chuyển đổi cảm xúc của tác giả giữa hai khổ thơ từ vui sướng, yêu đời sang buồn bã, tuyệt vọng. Vì quá đau đớn, xót xa cho kiếp người bất hạnh, Hàn Mặc Tử tìm về với vầng trăng, người bạn tri kỷ của thi sĩ, vẫn gắn bó với ông trong nhiều vần thơ vừa trong sáng vừa lạ lùng. kỳ lạ, tuổi thơ không thể diễn tả. Hình ảnh vầng trăng ở Đây thôn Vĩ Dạ hiện lên đẹp dịu dàng trong câu “Thuyền ai chở bến sông trăng ấy”, ánh trăng vàng nhạt phủ lên con thuyền nan đang xuôi theo dòng nước, lấp lánh mặt sông. ánh trăng sáng. Một khung cảnh quá đỗi hư ảo và thân thương dường như đã phần nào xua đi nỗi buồn trong tâm hồn tác giả. Tuy nhiên, Hàn Mặc Tử vẫn không quên được hết những hoang mang, lo toan cho cuộc đời trong câu thơ “Đêm nay có đưa trăng về kịp không?”, đó là cảm giác băn khoăn, lo lắng, linh cảm chẳng lành. cuộc đời ngắn ngủi của anh sắp kết thúc. Anh sợ mình không còn kịp nhìn thấy ánh trăng đẹp, không còn nhìn thấy “ánh trăng trắng” của cuộc đời - người con gái xứ Huế đã mang đến cho anh những niềm vui cuộc sống, hy vọng về một tình yêu mới. tình yêu đẹp giữa những giông tố cuộc đời bủa vây lấy thân xác khô héo của em, dù đó chỉ là tấm bưu ảnh em gửi.

Cuộc đời Hàn Mặc Tử thật ngắn ngủi và đau thương, hồn thơ dạt dào bao khát vọng yêu đời nhưng đằng sau đó là nỗi buồn đau đến tột cùng. Chính điều đó đã tạo nên một chất thơ trong trẻo, trong sáng và vô cùng phức tạp khi thường xuyên thấy sự xuất hiện của những yếu tố lạ, lãng mạn, điên như Hoài Thanh, cũng chính vì hồn thơ Hàn Mặc Tử là “Một nguồn sáng tỏa ra từ một tâm hồn đau khổ tột cùng. Ta chỉ thấy thấp thoáng chút dấu vết của một mối tình chết yểu… Chỉ trong thơ Hàn Mặc Tử mới thấy một nỗi đau mãnh liệt như thế. Lời ca như máu." Đây Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất cho phong cách sáng tác của Hàn Mặc Tử vừa đẹp, vừa ẩn chứa nỗi buồn, tuyệt vọng. những dòng thơ ngắn ngủi, khiến người ta không khỏi băn khoăn, ngậm ngùi cho một kiếp người nghệ sĩ ngắn ngủi và bất hạnh.

Phân tích 2 khổ thơ đầu của bài Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu 2

Đây Đây thôn Vĩ Dạ là tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của Hàn Mặc Tử. Bài thơ lấy cảm hứng từ tấm thiệp có bức tranh phong cảnh của Hoàng Cúc - người mà Hàn Mặc Tử thầm thương trộm nhớ - tác phẩm được viết vào những năm cuối đời khi nhà thơ đang điều trị bệnh hiểm nghèo tại trại. Phong Tuy Hòa.

Hai khổ thơ đầu của bài thơ là một bức tranh về cảnh và người xứ Huế vừa trong sáng, êm đềm lại vừa đượm buồn.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
Hàng cau nắng mới ngước mặt lên
Vườn ai xanh như ngọc
Lá tre che ngang hoàn chỉnh kiểu chữ"

Bài thơ mở đầu bằng một câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ”. Câu hỏi vừa là lời nhắc nhở, vừa là lời mời gọi, cũng có thể là lời trách móc nhẹ nhàng. Dường như tác giả đang phân bua để tự vấn bản thân về một việc lẽ ra đã làm từ lâu nhưng không thực hiện được: Về thăm thôn Vĩ Dạ. Những sắc thái đan xen gói gọn trong một câu hỏi tu từ nhẹ nhàng như vậy cho thấy niềm khao khát trở lại Vĩ Dạ mãnh liệt của nhà thơ, câu hỏi được thốt ra mang một nỗi niềm thầm kín không dễ bày tỏ. .

Sau câu hỏi thiết tha ấy, những ấn tượng về một thôn Vĩ thanh bình, yên ả dần hiện ra trong kí ức nhà thơ:

“Nắng hàng cau mới ngước mặt lên
Vườn ai xanh như ngọc
Lá tre che ngang hoàn chỉnh kiểu chữ"

Trong khu vườn xinh đẹp ấy, “hàng cau nắng” trong trẻo và tinh khiết đã thu hút và thu hút sự chú ý của nhà thơ. Những cây cau vươn mình đón những tia nắng đầu tiên mà thiên nhiên ban tặng, khoe vẻ thanh khiết dưới ánh nắng lung linh. Vẻ đẹp của khu vườn đẹp đến nỗi nhà thơ chợt thốt lên đầy ngạc nhiên nhưng cũng tràn đầy niềm vui thích thú: “Vườn ai sao xanh như ngọc”. Tính từ “mướt” kết hợp với từ chỉ mức độ “quá” gợi vẻ đẹp mượt mà, óng ả, tươi tắn, đầy sức sống của cây cối trong vườn. Hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” gợi vẻ đẹp yêu kiều, quý phái của khu vườn, những chiếc lá xanh mượt được “nắng hàng cau” chiếu rọi tạo nên màu xanh ngọc bích tuyệt đẹp. Cả khu vườn không chỉ được tưới mát bởi sương đêm và ánh nắng mặt trời mà còn được sự chăm sóc khéo léo của con người khiến chúng thêm tươi đẹp.

Giữa khung cảnh tươi đẹp ấy là hình ảnh người con gái Huế hiện lên với vẻ đẹp duyên dáng mà kín đáo:

“Lá trúc che ngang hoàn toàn kiểu chữ”

Khuôn mặt đầy chữ nhân thấp thoáng sau những chiếc lá tre mảnh mai gợi lên vẻ đẹp dịu dàng, nhân hậu. Dáng người thật kín đáo, ý nhị và nhẹ nhàng như chính bản chất của con người xứ Huế. Phải yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống biết bao nhiêu thì tác giả mới lưu giữ trong tâm trí mình những hình ảnh đẹp đẽ, sinh động như vậy.

Đằng sau bức tranh hài hòa giữa cảnh và người có lẽ là một nỗi trăn trở không nguôi của một cái “tôi” chứa đầy tâm sự:

“Gió theo gió, mây theo mây
Nước buồn hoa ngô nằm.”

Nghệ thuật nhân hóa được tác giả vận dụng khéo léo để miêu tả sự chuyển động, trạng thái của cảnh vật “Gió theo gió, mây theo mây”. Cách ngắt nhịp 4/3 giống như cắt đôi câu thơ như chia đôi vế trái. Hình ảnh gió và mây trong tự nhiên vốn dĩ đi liền với nhau, mây bay theo gió, khi gió thổi thì mây sẽ bay. Vì thế gió mây trong câu thơ hiện lên với cảnh chia phôi, gió mây ngược chiều, hai con đường, hai hướng. Đối với người sáng tác, đó là điều phi lý, nhưng với sự mặc cảm tự ti của người viết lời lúc bấy giờ, đó là giai điệu phù hợp.

Dòng nước sông Hương dường như thấu hiểu tâm trạng của nhà thơ và cũng mang nặng một nỗi lòng “buồn”. Dòng nước lặng lẽ trôi, những bông ngô đồng khẽ đung đưa bên bờ, nước trôi hoa trôi - cảnh vật có vẻ trống trải, động mà tĩnh lặng, tất cả dường như đều có nỗi buồn man mác. Có lẽ vì lúc này tác giả cảm nhận cảnh vật không phải bằng đôi mắt thường nữa mà bằng chính tâm trạng của mình. Đó là tiếng lòng của một người mang nặng mặc cảm sắp ra đi, từ biệt cõi đời mà tâm hồn vẫn tha thiết sống.

“Thuyền ai cập bến sông trăng
Cõng trăng đêm nay?”

Không gian đêm trăng trên sông mở ra đầy huyền ảo, thực, mộng. Trăng hòa vào làn nước trong xanh tạo nên vẻ lung linh, nên thơ. Dòng sông trăng đang đưa thuyền về bến, bến trăng đang đợi thuyền dừng lại, đêm nay liệu thuyền có chở trăng về kịp bến không? Câu hỏi tha thiết, chất chứa cả sự hồi hộp, mong đợi, chất chứa đầy lo lắng, bâng khuâng. Từ “đúng lúc” giản dị ấy gợi mở biết bao suy nghĩ về nhà thơ trẻ. Hơn ai hết, Hàn Mặc Tử hiểu thực tại ngắn ngủi, cái chết cận kề nên phải tranh thủ từng phút, từng giây, chạy đua với thời gian, với cuộc đời. Nếu con đò còn “đúng giờ” để chở trăng về bến thì “ta” còn nói được chuyện ấy, còn nếu không “đúng lúc” thì thi sĩ tội nghiệp sẽ rơi vào nỗi cô đơn, niềm đau muôn thuở. . Câu thơ cuối bài thật buồn và thương cảm, có lẽ với Hàn Mặc Tử được sống một mình cũng đã là hạnh phúc lắm rồi.

Cảnh sắc thiên nhiên và tâm huyết yêu đời của nhà thơ được thể hiện qua hai khổ thơ thật trong sáng, độc đáo và giàu sức biểu cảm. Qua đó, ta thấy một tâm hồn yêu đời, thiết tha với cuộc sống mãnh liệt của tác giả, từ đó biết trân trọng cuộc sống, trân trọng những phút giây của hiện tại mà không tiếc nuối.

Phân tích 2 khổ thơ đầu của bài Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất – Văn mẫu 3

Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào thơ mới. Anh là người tài hoa nhưng bạc mệnh khi mắc phải căn bệnh phong quái ác từ khi còn rất nhỏ. Có lẽ vì thế mà trong thơ anh luôn tồn tại hai thế giới song song, một bên trong sáng, trong sáng, một bên đầy ma mị, cuồng loạn. Người thôn Vĩ Dạ này ra đời vào năm 1938 khi ông đang mắc phải căn bệnh hủi quái ác. Bài thơ lấy cảm hứng từ một tấm bưu ảnh có vẽ phong cảnh xứ Huế và lời chào của Hoàng Cúc, người con gái mà Hàn Mặc Tử đã từng đem lòng yêu mến. Đặc biệt, qua hai khổ thơ đầu, tình yêu thiên nhiên, con người Vĩ Dạ và những nỗi niềm thầm kín của nhà thơ được bộc lộ rõ ​​nét.

Hai khổ thơ đầu của bài thơ miêu tả cảnh Vĩ Dạ của xứ Huế và nỗi cô đơn, mất mát, trống vắng của tác giả khi phải xa cách thế gian, con người.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Hàng cau nắng mới ngước mặt lên
Vườn ai mượt mà xanh như ngọc
Bìa lá trúc ngang hoàn chỉnh kiểu chữ
Gió theo gió, mây theo mây
Nước buồn, hoa ngô đồng nằm
Thuyền ai cập bến sông trăng
Cõng trăng đêm nay?”

Mở đầu bài thơ là một câu hỏi với giọng điệu đau đáu, dường như người dân thôn Vĩ đang mời gọi, xót xa nhà thơ sao không về thăm nữa.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Nhưng thực ra đây chỉ là câu hỏi tự vấn của nhà thơ bởi trong thâm tâm ông luôn mong một lần được “về chơi thôn Vĩ”. Hai chữ “về chơi” đã biến Vĩ Dạ trở thành một chốn thân thương mà thi nhân đã gắn bó cả tâm hồn.

Về với Vĩ Dạ, nhà thơ muốn nhìn thấy những “hàng cau” cao vút, những khu vườn um tùm cây cỏ, muốn nhìn thấy khuôn mặt thẹn thùng qua kẽ lá trúc.

“Nắng hàng cau mới ngước mặt lên
Vườn ai mượt mà xanh như ngọc
Lá tre che ngang hoàn chỉnh kiểu chữ"

Cảnh sắc Vĩ Dạ được mở ra từ xa đến gần, từ cao xuống thấp, góc nào cũng đẹp mà thơ mộng, tràn đầy sức sống trong buổi sớm mai. Trong hành trình “thăm quan” Vĩ Dạ bằng tâm tưởng, cái nhìn đầu tiên của nhà thơ dừng lại ở hình ảnh “nắng hàng cau, nắng mới lên”. Hai từ “nắng” trong cùng một câu thơ khiến ta cảm nhận được cả một không gian tràn ngập nắng sớm, trong lành và tinh khiết. “Nắng hàng cau” là thứ nắng đặc trưng của Vĩ Dạ và Hàn Mặc Tử đã đặc biệt tinh tế phát hiện ra vì Vĩ Dạ là nơi trồng rất nhiều cau. Những hàng cau cao vút, vươn thẳng lên trời đón những giọt nắng ban mai đầu tiên, và đó cũng là lúc cả thành phố Huế thức dậy trong cái mát lành, trong lành.

Trong ánh nắng ban mai tinh khiết ấy, khu vườn “ai” hiện lên căng tràn sức sống, ngào ngạt mật ngọt.

“Vườn ai mướt xanh như ngọc”

Đại từ “ai” mơ hồ, không biết ai là của ai vì khu vườn ấy chính là khu vườn trong tâm trí nhà thơ. Khu vườn tràn ngập cây cối xanh “mượt mà”. Chỉ một từ “mượt mà” cũng khiến người đọc có cảm giác như cả một khu vườn xanh mướt, tươi tốt hiện ra trước mắt. Ngoài ra, hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” còn gợi cho ta hình ảnh khu vườn phủ đầy sương đêm được mặt trời chiếu sáng. Từng cành, phiến lá hiện ra lung linh, lấp lánh như một khối ngọc bích khổng lồ. Đoạn thơ không chỉ là tả cảnh mà còn là sự ngưỡng mộ của nhà thơ khi ca ngợi cảnh vườn Vĩ Dạ với một tình yêu thiết tha.

Không chỉ say mê nhìn ra vườn, ngắm ánh ban mai, Hàn Mặc Tử còn đắm mình trong ánh mắt của người Vĩ Dạ:

“Lá trúc che ngang hoàn toàn kiểu chữ”

Hẳn đó là một nét cách điệu của nhà thơ, bởi khuôn mặt người hiện ra sau lá trúc, vừa thực vừa hư ảo vô cùng. Những đường nét trong bức tranh thơ không chỉ là thiên nhiên mà còn là con người, làm cho khung cảnh vườn Vĩ Dạ bỗng trở nên ấm áp, sinh động.

Gương mặt người sau vòm lá thấp thoáng gợi lên vẻ rụt rè, e thẹn với tính cách kín đáo là một nét rất riêng của người phụ nữ Huế. Câu thơ của Hàn Mặc Tử hẳn được gợi ra từ một câu ca dao rất quen thuộc của người xứ Huế:

“Mặt em vuông như chữ điền
Da tôi trắng, áo tôi đen
Trái tim tôi có đất và trời
Có chữ nhân, có chữ trung”.

Bởi vậy, câu thơ của Hàn Mặc Tử không chỉ đậm chất dân gian xứ Huế mà còn gợi lên vẻ đẹp tâm hồn của con người nơi đây vừa giản dị vừa giàu lòng trung nghĩa.

Khổ thơ đầu tái hiện bức tranh phong cảnh Vĩ Dạ vừa tươi đẹp, vừa ấm áp, tràn đầy sức sống. Đồng thời cũng thể hiện tình cảm gắn bó tha thiết của nhà thơ với Vĩ Dạ quê hương và khát khao được giao tiếp với cuộc đời bất chấp những trở ngại của bệnh tật.

Bước sang khổ thơ thứ hai, cảnh vật và không gian của Vĩ Dạ không còn tĩnh mà có sự vận động, biến đổi. Vẫn là những cảnh đẹp mang nét đặc trưng của xứ Huế, nhưng nay là cảnh non nước, mây trời:

“Gió theo gió, mây theo mây
Nước buồn, hoa ngô đồng nằm
Thuyền ai cập bến sông trăng
Cõng trăng đêm nay?”

Bức tranh thơ mộng được mở rộng với mây trời và dòng sông Hương bồng bềnh vừa hùng vĩ vừa phóng khoáng. Dòng sông, hoa ngô, gió, mây, tất cả đều mang hồn xứ Huế, gợi lên một nét yên bình, tĩnh lặng rất riêng của nơi đây.

Nhà thơ đã tả cảnh sông Hương dưới trăng khuya. Đó là dòng sông lấp lánh ánh vàng huy hoàng, những con thuyền cũng đượm ánh trăng cập bến bến sông trăng. Ánh trăng đã làm cho dòng sông Hương càng thêm thơ mộng, vừa hư ảo vừa tĩnh lặng trong đêm khiến ai một lần bắt gặp cũng khó lòng quên được!

Đằng sau bức tranh là tâm trạng mà nhà thơ muốn gửi gắm. “Mây và gió” là hai thứ luôn song hành với nhau, nhưng ở đây Hàn Mặc Tử đã nhân cách hóa chúng và miêu tả chúng như không thể chia lìa. Mây một nẻo, gió một nẻo, đã xa rồi chia xa. Phải chăng đó cũng chính là tâm trạng của nhà thơ lúc đang yêu đơn phương nơi xa và phải chia tay cuộc đời vì bạo bệnh. Nỗi buồn của nhà thơ đã lan tỏa và đã hòa vào thiên nhiên.

Nỗi buồn ấy cũng hòa cùng dòng nước. Nhìn dòng sông lững lờ trôi, Hàn Mặc Tử thấy dòng sông cũng “buồn thiu”. Dòng sông Hương mang bao cảm xúc của thi nhân, nó cũng mang nặng một nỗi buồn. Đó là tâm trạng của một cái tôi cô đơn giữa đất trời, giữa cuộc đời khi nhìn quanh chỉ thấy những bông ngô đồng đung đưa, dòng sông quạnh hiu.

Nỗi buồn cô đơn của nhà thơ càng thấm thía hơn khi đặt mình giữa trời, trăng, nước. Nước mênh mông, ánh trăng lành lạnh, màn đêm tĩnh mịch, cảnh vật như một cõi hiu quạnh đến quái dị bởi chính anh cũng cô đơn, lạc lõng giữa cuộc đời vì căn bệnh dày vò.

Tuy nhiên, trên tất cả là khát khao được đồng cảm với cuộc đời, khát khao được con người hóa giải những nỗi đau. Có lẽ vì thế mà trên dòng sông hiu quạnh ấy thấp thoáng bóng “thuyền ai”:

“Thuyền ai cập bến sông trăng
Cõng trăng đêm nay?”

Khao khát, khao khát hy vọng, nhưng Hàn Mặc Tử nhận ra một thực tế phũ phàng: không một ai, không một ai có thể sưởi ấm một trái tim cô đơn, lạc lõng, nên nhà thơ mong ai đó “cõng trăng ngược thời gian đêm nay”.

Vầng trăng muôn đời là nguồn cảm hứng bất tận, là vẻ đẹp vĩnh cửu mà ai cũng hướng tới. Đối với nhà thơ, trăng còn là người bạn, tri kỷ, tri kỷ thì với Hàn Mặc Tử, trăng còn hơn thế. Ông khao khát trăng, hướng tới cái đẹp mà ánh trăng mang lại nên ông hiểu, dù đau đớn vì bệnh tật, Hàn Mặc Tử vẫn luôn hướng tới cái đẹp của cuộc sống và nghệ thuật. Đọc thơ Hàn Mặc Tử, người ta cảm phục một tài năng và một nghị lực sống phi thường của một con người biết vượt lên hoàn cảnh để hiến dâng cho đời.

Bốn câu thơ là một bức tranh sông nước, mây trời nhưng thấm đẫm tâm trạng buồn bã, cô đơn, khát khao được giao tiếp với cuộc đời của tác giả.

Hai khổ thơ đầu của bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là sự kế thừa thể thơ truyền thống với thể thơ bảy chữ và cũng thể hiện nỗ lực cách tân thơ ca của Hàn Mặc Tử. Hình ảnh thơ rất mộc mạc, giản dị, đời thường, lời nói như lời ăn tiếng nói hàng ngày, tất cả tạo nên một chất thơ rất hiện đại.

Qua hai khổ thơ, người đọc không chỉ cảm nhận được bức tranh phong cảnh thôn Vĩ Dạ vừa đẹp vừa thanh bình mang nét đặc trưng xứ Huế mà còn cảm nhận được một nỗi buồn cô đơn của Hàn Mặc. Chết khi phải chia lìa cõi đời vì bệnh tật và trong một tình yêu vô vọng.

Phân tích 2 khổ thơ đầu của bài Đây thôn Vĩ Dạ - Văn mẫu 4

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” luôn được nhiều thế hệ yêu thích và có 3 ý kiến ​​cho bài thơ. Thứ nhất, bài thơ là tiếng nói của trái tim, là sự trăn trở của một mối tình thầm kín; sau đó là những lời yêu thương về một vùng quê thanh bình và thứ ba, bài thơ là khát vọng sống của nhà thơ, khát vọng được cảm thông, sẻ chia với cuộc đời. Và hai khổ thơ thể hiện rõ tình cảm tác giả gửi gắm qua bài thơ:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Hàng cau nắng mới ngước nhìn.
Vườn ai xanh như ngọc
Lá tre che ngang hoàn chỉnh mặt chữ.

Gió nối tiếp gió, mây nối tiếp mây,
Nước buồn, hoa ngô đồng...
Thuyền ai cập bến sông trăng kia,
Cõng trăng đêm nay

Thơ bao giờ cũng là sự phản ánh cuộc sống qua lăng kính của thi nhân, qua tâm hồn sắc sảo của thi nhân. Vì vậy, thơ luôn mang những tâm tư, tình cảm mà người nghệ sĩ muốn gửi gắm, thể hiện. Còn Hàn Mặc Tử thì luôn sáng tạo, không ngừng chiêm nghiệm cuộc đời để cho ra đời nhiều tác phẩm đặc sắc. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một tác phẩm tiêu biểu.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Câu hỏi tu từ này là sự phân đôi của nhà thơ. Lúc này Hàn Mặc Tử đang hóa thân thành một cô gái Huế và hỏi với giọng nhẹ nhàng trách móc, ai oán. Từ "chơi" có vẻ là một cách chơi chữ. Vì tác giả có thể dùng từ "thăm" nhưng lại làm mất đi sự thân thuộc gần gũi.

Câu thơ cũng có thể là lời tự trách, tự hỏi sao Huế đẹp thế mà anh không ra chơi. Câu hỏi ấy đau đáu, bởi có lẽ khi viết bài thơ này, nhà thơ đang phải chịu đựng nỗi đau của căn bệnh phong hủi giai đoạn cuối. Vì thế, được ra Huế chơi đã trở thành niềm ao ước của Hàn Mặc Tử.

Dù không thể trở lại Huế nhưng trong tâm trí nhà thơ, thiên nhiên thôn Vĩ vẫn lung linh, tươi đẹp:

“Nắng hàng cau mới ngước mặt lên
Vườn ai xanh như ngọc
Lá tre che ngang hoàn chỉnh kiểu chữ"

Ba câu thơ đã khắc họa thành công một bức tranh thôn Vĩ thơ mộng, từ xa đến gần. Từ “nắng” gợi ra trước mắt người đọc một không gian ngập tràn ánh sáng. Còn cau là loài cây đặc trưng của thôn Vĩ, thân thẳng tắp với tán lá xanh mướt khiến thực khách phải thốt lên “vườn nhà ai xanh như ngọc”. Tuy nói là “vườn của ai” nhưng ai cũng biết đó là khu vườn của một cô gái Huế.

“Xanh mượt như ngọc”. Xanh như ngọc là màu xanh thuần khiết, màu xanh tinh túy kết tinh từ nắng, từ sương. Màu xanh ngọc ấy đã tạo nên một khu vườn hữu tình và thôn Vĩ vì thế mà trở nên đẹp hơn. Nhưng bức tranh quê ấy hoàn hảo hơn, có thần tình hơn khi thấp thoáng bóng dáng thiếu nữ: “lá tre che mặt phông”. Như lũy tre lá, Đây thôn Vĩ Dạ nổi tiếng với cây trúc luôn được trồng trước ngõ. Vì thế, trong tâm trí nhà thơ, khuôn mặt chữ điền thấp thoáng sau hàng tre.

Phân tích hai khổ thơ đầu của bài Đây thôn Vĩ Dạ, trước hết người đọc có thể thấy rõ, tất cả cảnh vật, con người tạo nên một bức tranh hài hòa giữa con người và thiên nhiên. Nhưng có lẽ nếu thơ chỉ có niềm vui, niềm lạc quan yêu đời thì đã không phải là thơ Hàn Mặc Tử. Vì thế, sau khổ thơ đầu rạng ngời nắng, ở khổ thơ thứ hai giọng điệu thơ đã chuyển sang niềm day dứt về sự chia ly:

“Gió theo gió, theo mây theo mây
Nước buồn hoa ngô nằm.”

Với hai câu thơ này, vẻ đẹp đặc trưng của xứ Huế được thể hiện rõ nét. Đó là dòng Hương trôi, là vườn trộm, trên kia “gió theo chiều gió”, mây đi lối mây. Dẫu biết mây và gió là hai hiện tượng không thể tách rời, nhưng vì gió có thổi thì mây mới bay được. Tuy nhiên, trong câu thơ của Hàn Mặc Tử, gió và mây chia tay, nước buồn mang một tâm trạng khó tả.

“Thuyền ai cập bến sông trăng
Cõng trăng đêm nay”

Hai câu thơ tiếp theo vẫn là dòng sông Hương, kinh thành Huế mộng mơ nhưng nay đã không còn nắng, màu xanh ngọc của Vĩ Dạ giờ là một không gian tràn ngập ánh sáng của trăng. Và thuyền trở thành thuyền trăng, sông trở thành sông trăng và bến là bến trăng.

Bến trăng, thuyền trăng đã nhiều lần xuất hiện trong thơ ca, nhưng sông trăng là một hình ảnh mới. Vì thế, câu thơ như đưa người đọc vào cõi mộng. Và "Bạn có thể mang mặt trăng trở lại thời gian cho đêm nay?" là câu hỏi mong đợi, hồi hộp, lo lắng và nghi hoặc, khẩn thiết; Đó cũng chính là câu hỏi mà nhà thơ tự hỏi mình. Nhà văn ý thức được rằng, nếu đêm nay trăng không “về kịp” thì tôi sẽ mãi mãi chìm trong đau đớn, tuyệt vọng.

Qua hai khổ thơ đầu của bài Đây thôn Vĩ Dạ có thể thấy thành công của hai khổ thơ là nhờ các biện pháp tu từ như ám chỉ, nghi vấn, so sánh bằng liên tưởng. Bằng những nét vẽ nghệ thuật, Hàn Mặc Tử đã khắc họa nên một khung cảnh thơ mộng, tràn đầy sức sống nhưng cũng mang nỗi buồn, nỗi lòng của một thi nhân chịu nhiều bất hạnh.

Phân tích 2 khổ thơ đầu của bài Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu 5

Hẳn mỗi người Việt Nam đều đã biết đến bài vọng trăng nổi tiếng của nhà thơ trữ tình lãng mạn Hàn Mặc Tử vào những năm 30 của thế kỷ 19 và lời rao trăng ấy đã in sâu trong lòng người đọc. Anh là một thiên tài như những vì sao sáng trên bầu trời thơ mới, nhưng cuộc đời anh cũng đầy bất hạnh, anh luôn quằn quại đau đớn bên chiếc giường trong trại phong nơi có sự đấu tranh, giằng xé. giữa linh hồn và xác thịt của mình với một căn bệnh quái dị. Và chính nơi đây, ông đã tạo ra cho mình một thế giới nghệ thuật điên rồ, ma quái. Chính cái “chất điên” ấy đã làm nên phong cách nghệ thuật độc đáo, riêng biệt và mới mẻ của Hàn Mặc Tử.

Thơ ông tưởng chừng như ứa máu và nước mắt, nhưng bên trong những dòng thơ ấy vẫn có những dòng thơ trong trẻo, dung dị đến lạ lùng. Đây thôn Vĩ Dạ trích trong tập thơ điên điển là một tác phẩm như thế. Đây là sản phẩm của nguồn thơ lạ lùng ấy, là lời thú nhận với cuộc đời của một mối tình đơn phương tuyệt vọng, nhưng ẩn dưới mỗi nét sáng là một khối u của tác giả. Đoạn thơ còn là tình yêu thiên nhiên, yêu người tha thiết của Vĩ Dạ - nơi chứa đựng biết bao kỉ niệm và luôn sống mãi trong hồi ức của ông. Vì vậy, đọc bài thơ này ta thấy được một khía cạnh rất đẹp trong tâm hồn nhà thơ.

Xứ Huế mộng mơ đã từng là nguồn cảm hứng cho biết bao nhà văn, nhà thơ. Có lẽ hay nhất là tập thơ điên với cái điên ấy của Hàn Mặc Tử, được ông mở đầu bằng câu hỏi:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Ngay trong câu hỏi ấy đã chứa đựng nhiều sắc thái biểu cảm như hỏi thăm, nhắc nhở, trách móc, vừa như một lời giới thiệu, vừa mời gọi mọi người. Câu thơ bảy chữ nhưng có sáu thanh điệu khiến giọng điệu nhẹ nhàng, tình cảm, chính sự ngọt ngào làm dịu đi lời trách móc. Nhưng ở đây không phải lỗi của hoàng cúc mà là của chủ thể trữ tình Hàn Mặc Tử, từ tình yêu Huế sâu nặng của Hàn Mặc Tử trong tâm trạng tuyệt vọng nhưng khao khát của Hàn Mặc Tử, anh đã vẽ nên khung cảnh. Thôn Vĩ đẹp như trong truyện cổ tích ở ba câu tiếp theo:

“Nắng hàng cau mới ngước mặt lên
Vườn ai xanh như ngọc
Lá tre che ngang hoàn chỉnh kiểu chữ"

Thôn Vĩ hiện lên trong thơ Hàn Mặc Tử thật bình dị mà đẹp biết bao! Bằng tình yêu thiên nhiên của mình, tác giả đã mở ra trước mắt chúng ta một bức tranh thiên nhiên kì vĩ, đẹp một cách lộng lẫy. Thôn Vĩ nói riêng và xứ Huế nói chung đặc trưng bởi ánh bình minh và khu vườn thân quen. Đó là một đường thẳng cao nằm dưới ánh mặt trời. Hàng cau như đón người thân sau bao ngày xa cách. Hàng cau cao vút là hình ảnh quen thuộc của thôn Vĩ Dạ từ bao đời nay. Quên màu xanh ở đây đi. Nhà thơ đã thốt lên đầy ngưỡng mộ khi đứng trước một màu xanh mướt của thôn Vĩ Dạ: “vườn ai xanh như ngọc bích”. Ở đây, nó cho ta thấy một sự vươn lên mạnh mẽ, sung mãn, căng tràn sức sống và cho ta thấy sự trẻ trung, yêu đời. Trong không gian tươi trẻ ấy, một khuôn mặt đầy chữ nghĩa và nhân hậu hiện ra. Với những chiếc lá trúc che đi khuôn mặt nhân hậu đã làm nổi bật vẻ đẹp của một cô gái Huế duyên dáng, dịu dàng, kín đáo, đằm thắm.

Bài thơ đẹp bởi sự hài hòa giữa cảnh vật và con người. Tâm trạng của nhân vật trong đoạn thơ này là niềm hân hoan, hân hoan, say mê như lạc vào cõi thần tiên, cõi mộng khi được trở lại với cảnh và người thôn Vĩ.

Cũng cùng một không gian là Đây thôn Vĩ Dạ nhưng thời gian chuyển từ sáng sang chiều và nhà thơ đã phác ra một không gian bao la, rộng lớn có đủ gió, mây, sông, nước, trăng, hoa. . Với không gian rộng lớn ấy, nhà thơ đã miêu tả hai thực thể luôn gắn bó trong trạng thái không thể chia lìa:

“Gió theo gió, theo mây theo mây”.

Điều này là sai trái, không thực tế và vô lý. Qua đó cho thấy nhà thơ tạo ra hình ảnh này không phải bằng thị giác mà bằng cái nhìn áy náy. Đó là mặc cảm của một người gắn bó sâu sắc với cuộc sống nhưng lại có nguy cơ phải xa cách với thế giới nên nhìn đâu cũng thấy sự chia ly.

Vốn dĩ nhà thơ đang vui khi một sớm mai trở lại Đây thôn Vĩ Dạ bỗng trở nên buồn man mác. Có lẽ nỗi buồn ấy là do mối tình đơn phương và những kỷ niệm đẹp với cảnh và người xứ Huế mộng mơ. Quả thật, người buồn có bao giờ vui. Huế vốn thơ mộng và yên bình - các nhà thơ làm cho nó vô tình và lạ lùng.

“Nước buồn bông ngô rụng
Thuyền ai cập bến sông trăng
Cõng trăng đêm nay”

Dòng Hương Giang đẹp và thơ mộng đã đi vào thơ ca Việt Nam bao đời nay mà nay buồn, lòng sông buồn, đôi bờ buồn, những bông ngô đồng không màu khẽ bay trong gió. Cảnh buồn chỉ đến đó, còn trăng mọc rồi lặn là một con người hoàn toàn mới. Với tính cách lãng mạn, nhà thơ đã tạo nên một không gian tràn ngập ánh trăng, dòng sông trăng, bến trăng, con thuyền chở trăng, tất cả đều lung linh, huyền ảo… vầng trăng đã đi vào tâm thức của tôi. Người Việt đã có từ lâu đời, nhưng trăng ở đây khác với trăng của các thế hệ trước và đương thời. Không có thuyền nào chở được trăng nhưng ở đây nhà thơ lại thấy thuyền quay trăng. Điều đó khiến mọi thứ nơi đây trở nên huyền ảo, đầy lãng mạn. Tuy nhiên, đối diện với trăng, nhà thơ vẫn có một tâm trạng bất an.

Chỉ với hai khổ thơ đầu, Hàn Mặc Tử dường như đã cho ta thấy hết về người và cảnh thôn Vĩ Dạ, qua đó hiểu sâu sắc hơn tâm trạng nặng trĩu của nhân vật trữ tình. Thấy được một tâm hồn nhạy cảm với đời, với tình, với cuộc đời của tác giả.

Phân tích 2 khổ thơ đầu của bài Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu 6

Trong số các nhà thơ của phong trào thơ mới 1932 – 1945, có lẽ chúng ta không thấy ai có số phận nghiệt ngã như Hàn Mặc Tử, số phận cay đắng của nhà thơ được dự đoán qua ý nghĩa của biệt danh Phong Trần. (Gió bụi), Lệ Thanh (tiếng khóc). Hàn Mặc Tử đi trong giá lạnh với trái tim xao xuyến, anh đã trải lòng mình trên trang giấy mỏng manh và cho ra nhiều bài thơ độc đáo. Một trong số đó là bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ, khi đọc bài thơ, độc giả sẽ ấn tượng với hai khổ thơ đầu:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
…………
Cõng trăng đêm nay”

Hàn Mặc Tử là một trong ba đỉnh cao của phong trào thơ mới, anh là một hiện tượng thơ rất mới lạ. Hồn thơ mãnh liệt luôn chất chứa sự mâu thuẫn giữa cảnh vật và tinh thần bởi nỗi đau bệnh tật nên ông luôn khao khát sống, khao khát đồng cảm với cuộc đời và con người. Bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" được sáng tác năm 1938, lấy cảm hứng từ mối tình đơn phương của Hàn Mặc Tử với một cô gái Huế, bài thơ được in trong tập "Thơ Điên" và sau đổi thành "Nỗi Đau".

Như chúng ta đã biết thơ là cuộc sống, nhưng không phải là sự sao chép một cách máy móc mà phải được chắt lọc, cảm nhận qua tâm hồn thi nhân thì mới trở thành thơ. Thơ là những hình ảnh tươi nguyên, được tái hiện qua lăng kính cảm xúc của người nghệ sĩ. Bởi vậy, nếu thơ không có tư tưởng, không có cảm xúc thì chỉ là những lời sáo rỗng nhạt nhẽo vô vị, chỉ chọn làm xiếc, ngôn từ không lừa được người đọc. Là một nhà thơ, Hàn Mặc Tử không ngừng sáng tạo ra những tác phẩm độc đáo, khác biệt với các nhà thơ cùng thời. Đọc Đây thôn Vĩ Dạ cho ta cảm nhận rõ hơn điều đó, mở đầu bài thơ là một câu hỏi tu từ:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Câu hỏi ấy chính là sự phân thân của nhà thơ, nhà thơ hóa thân thành cô gái Huế để hờn dỗi, trách móc nhẹ nhàng nhưng đằng sau đó là một lời mời rất chân thành, nhà thơ dùng từ “chơi” gợi sự gần gũi thân thiết. Mặt khác, câu hỏi tu từ này là nhà thơ đang tự hỏi mình, tự trách mình rằng, sao xứ Huế cảnh đẹp thế này mà mình không đến chơi. Đó là một câu hỏi lớn, nhức nhối, nay trở lại Huế đã trở thành niềm khát khao của nhà thơ. Có lẽ khi sáng tác bài thơ này, nhà thơ đang ở giai đoạn cuối của bệnh phong nên trong tâm trí ông chỉ có thể trở về chơi thôn Vĩ, nhưng dù trong tâm trí ông, cảnh thiên nhiên thôn Vĩ vẫn đẹp lung linh. :

“Nắng hàng cau mới ngước mặt lên
Vườn ai xanh như ngọc
Lá tre che ngang hoàn chỉnh kiểu chữ"

Bức tranh thôn Vĩ đẹp và thơ mộng có thể được chiêm ngưỡng từ xa. Câu thơ có điệp ngữ “nắng” gợi lên trong mắt người đọc một không gian tràn ngập ánh sáng, đó là loài cây mang vẻ đẹp đặc trưng của thôn Vĩ, với thân thẳng tắp, tán lá xanh mướt, miệt vườn. Thôn Vĩ xanh mướt đến nỗi khách phương xa phải trầm trồ “vườn nhà ai xanh như ngọc” không rõ vườn của ai nhưng người đọc vẫn có thể hiểu đó là khu vườn của một cô gái Huế. “mượt” là đặc tả về màu xanh của lá. Tại sao tác giả không dùng màu lam, xanh thẫm mà lại dùng màu xanh ngọc bích, có lẽ đó là màu xanh tinh khiết, tinh túy, quyến rũ và bức tranh thôn Vĩ ngày càng đẹp, hiện lên thật hoàn hảo. hơn, khi có sự xuất hiện của cô gái “lá tre che mặt chữ điền”. Vĩ Dạ nổi tiếng với màu xanh của tre, của hàng cây trồng trước ngõ. Trong tâm trí nhà thơ chợt hiện lên qua từ điền sau hàng tre. Lá trúc mảnh mai, mặt chữ điền gợi lên sự vuông vắn, đôn hậu.

Tất cả tạo nên vẻ đẹp hài hòa giữa con người và thiên nhiên, nếu như ở khổ thơ đầu nhà thơ nhìn cảnh vật với niềm lạc quan yêu đời thì khổ thơ thứ hai có sự thay đổi đó là nỗi niềm day dứt về cảnh chia tay, chia lìa:

“Gió theo gió, theo mây theo mây
Nước buồn hoa ngô nằm.”

Hai câu thơ gợi tả vẻ đẹp đặc trưng của xứ Huế, đó là dòng sông Hương chầm chậm chảy hai bên bờ, những vườn ngô, khóm hoa nhẹ nhàng đung đưa, trên cao là gió bay theo mây trời. đường mây. Thực ra ta thấy Gió và Mây là hai thứ không thể tách rời nhau, vì khi gió thổi thì mây trời mới bay được. Thế nhưng, hai chữ chia tay vẫn đến, thủy chung vẫn như mang một tâm trạng khó tả.

Cho đến hai câu thơ tiếp theo, vẫn là sông Hương, là xứ Huế mộng mơ nhưng không còn nắng, không còn màu xanh của Vĩ Dạ mà trước mắt người đọc là không gian tràn ngập ánh trăng, con thuyền trở thành con thuyền. Trăng, sông thành sông trăng, bến thành bến trăng

“Thuyền ai cập bến sông trăng
Cõng trăng đêm nay”

Từ xưa đến nay ta thường bắt gặp hình ảnh con thuyền trăng, bến nước, nhưng nay ta lại bắt gặp một hình ảnh mới đó là dòng sông trăng, đọc bài thơ người đọc sẽ có cảm giác như bước vào cõi mộng, như thể thơ đang sống trong lo lắng, chờ đợi. Ở khổ thơ đầu câu hỏi tu từ xuất hiện ở câu đầu, ở khổ thơ thứ hai câu hỏi tu từ xuất hiện ở câu thơ cuối. Câu thơ như chở bao cảm xúc “Có gánh trăng về” là sự mong chờ hi vọng “còn kịp đêm nay” là sự băn khoăn, lo lắng, hoài nghi, là yêu cầu khẩn thiết. Nhưng hình như nhà thơ đã báo trước sự thất vọng, nhà thơ dường như ý thức được rằng nếu trăng không về kịp thì sẽ mãi mãi rơi vào thế giới đau thương, tuyệt vọng.

Thành công của đoạn văn là nhờ sử dụng các biện pháp tu từ như điệp ngữ, câu hỏi tu từ, so sánh bằng biện pháp nghệ thuật liên tưởng, cùng với câu hỏi tu từ xuyên suốt đoạn văn. Nhà thơ đã miêu tả trước mắt chúng ta một khung cảnh thơ mộng, tràn đầy sức sống và trong đó là cả tấm lòng của chính nhà thơ.

Tóm lại, Đây Thôn Vĩ Dạ là một bức tranh đẹp về cảnh và người của vùng quê, đất nước qua tâm hồn giàu trí tưởng tượng, yêu đời của nhà thơ đa cảm, đa cảm. Và Hàn Mặc Tử đã thực sự thành công khi thể hiện sự thay đổi tâm trạng của nhân vật trữ tình - người mang nặng tâm trạng.

Phân tích hai khổ thơ đầu của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu 7

Nhắc đến phong trào thơ Mới không thể không nhắc đến Hàn Mặc Tử - thi sĩ điên đảo của văn học Việt Nam. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một kiệt tác tiêu biểu của ông. Hai khổ thơ đầu của bài thơ như một khúc ngâm trữ tình đẹp đẽ, giàu sức gợi:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Hàng cau nắng mới ngước mặt lên

Thuyền ai cập bến sông trăng
Cõng trăng đêm nay”

Vĩ Dạ - chốn bồng lai tiên cảnh trong lòng xứ Huế mộng mơ. Câu hỏi tu từ tha thiết, vừa là lời trách móc, vừa là lời mời gọi: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ” nghe thật chân thành, nhẹ nhàng. Giọng thơ trầm lắng, nhẹ nhàng khó tả qua cách kết hợp vần bằng trong các câu tinh tế. Câu thơ như một lời gợi mở trước vẻ đẹp của thiên nhiên và con người nơi đây:

“Nắng hàng cau mới ngước mặt lên
Vườn ai xanh như ngọc
Lá tre che ngang hoàn chỉnh kiểu chữ"

Những hàng cau thẳng tắp vươn mình đón nắng, gió thoảng mây “nắng mới lên” mang một cái gì đó trong sáng, thuần khiết và đẹp đẽ. Vẻ đẹp của ánh nắng vàng tươi, không gay gắt như trưa hè, không buồn như hoàng hôn, mà là ánh nắng trong veo vô tận của buổi sớm mai. Những hàng cau xanh mướt dưới nắng vàng dịu dàng hiện lên thật đẹp. Trong không gian ấy còn có cả một khu vườn “thật mát mắt, xanh như ngọc bích”. Bằng những tính từ gợi cảm, chỉ những màu sắc đặc sắc, tác giả đã tái hiện khung cảnh khu vườn đầy tơ non, mang sức sống mới, tươi tốt và tràn đầy hi vọng. Vài giọt sương đọng trên lá càng thêm lung linh, những cành non mơn mởn trong màu xanh của lá căng tràn nhựa sống, trong sáng và thanh khiết. “Lá tre che mặt chữ điền” – Gương mặt thiếu nữ thấp thoáng trong không gian tuyệt vời. Khuôn mặt ấy thật đẹp sau rặng tre xanh dịu. Tất cả tạo nên một vẻ đẹp ấn tượng và độc đáo, vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng, thanh lịch và nhã nhặn của người con gái Huế hiện lên một cách duyên dáng và ý nhị. Cảnh và người như hòa quyện, mang tâm hồn người bâng khuâng, rạo rực trước vẻ đẹp của thiên nhiên.

Nếu khổ thơ đầu là cảnh lúc bình minh thì khổ thơ thứ hai là hình ảnh thôn Vĩ trong cảnh chiều tối.

“Gió theo gió, mây theo mây
Dòng nước chảy quanh bông ngô
Thuyền ai cập bến sông trăng
Cõng trăng đêm nay”

Dường như thiên nhiên đang nhuốm màu buồn của sự chia ly, mây và gió vốn thường song hành, nay trở về đôi ngả “gió theo gió, mây theo mây”, mây và gió lang thang vô định giữa khoảng không. bầu trời, cảm giác như những vì sao. Thật cô đơn và buồn bã. Dòng nước cũng được nhân hóa với cảm giác “buồn bã” bồng bềnh, bông ngô đồng nhẹ “đong đưa” trong gió cũng có phần yếu ớt, phảng phất chút hoài niệm. Cảnh vật mang theo tiếng lòng của tâm hồn con người, dường như đâu đó ta còn nghe thấy tiếng lòng thi nhân cô đơn trước nỗi nhớ mong, bùi ngùi trước cảnh chia tay buồn. Để nguôi ngoai nỗi lòng, nhà thơ nhìn ra dòng sông Hương huyền ảo, dòng sông được ánh trăng mờ soi rọi, con thuyền nằm thong dong bên bờ sông Thương. Bến trăng, sông trăng, thuyền trăng, mây núi, bầu trời tràn ngập ánh trăng, chứa đựng một điều gì đó khó hiểu. Trăng đẹp nhưng trăng cũng buồn, bóng tối lặng lẽ, yên bình trên bầu trời đêm. “Có đưa trăng về kịp đêm nay” - câu thơ như một lời tâm sự, một câu hỏi nhưng cũng là một sự chờ đợi, mong đưa trăng về đúng lúc như một thi sĩ đang đợi người yêu đến để vơi đi nỗi sầu. Cô đơn quá, bởi trăng như người bạn tâm tình của nhà thơ.

Bằng những hình ảnh thơ độc đáo, quen thuộc và giản dị, nhưng qua tài năng trong ngòi bút của mình, Hàn Mặc Tử đã biến cái quen thuộc thành nét mới lạ, hấp dẫn. Khung cảnh mang theo cảm xúc, dư vị hoài cổ của nhà thơ với cái nhìn tinh tế, sâu sắc, chỉ qua hai khổ thơ ta thấy được tình yêu tha thiết của nhà thơ đối với cuộc sống và thiên nhiên.

Phân tích hai khổ thơ đầu của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu 8

Hàn Mặc Tử là một nhà thơ có tâm hồn nhạy cảm, những sáng tác của ông được sáng tác đi vào lòng người một cách tự nhiên và sâu lắng, để lại nhiều suy ngẫm cho người đọc. Một trong những bài thơ đó là bài “Đây thôn Vĩ Dạ”, một bài thơ nói đến vùng quê xứ Huế thơ mộng, mang vẻ đẹp vừa giản dị vừa đáng yêu như chính cô gái mà tác giả đang thầm yêu. cô. Không chỉ vậy, bài thơ còn thể hiện niềm khao khát, tình yêu quê và sự gắn bó thiết tha của nhà thơ với người thân.

Khác với những bài thơ khác, mở đầu bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” không phải là một câu miêu tả hay một câu cảm thán mà là một câu hỏi tu từ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ”. Cảm hứng của bài thơ bắt nguồn từ bức thư của Hoàng Thị Kim Cúc viết cho Hàn Mặc Tử, câu chữ khiến cảm xúc tác giả ùa về, gợi hoài niệm về một miền thơ mộng hữu tình.

Dòng đầu của bài thơ, mở ra một câu hỏi lạ, mở ra một câu hỏi không ai trả lời khiến cho mạch cảm xúc của bài thơ trở nên bâng khuâng khôn tả. Dù không ở gần, không một lần về thăm Vĩ Dạ nhưng với nỗi nhớ đã đưa Hàn Mặc Tử trở về cố hương. Câu hỏi tu từ như một lời trách móc, hờn dỗi của người con gái như muốn nói rằng, sao lâu rồi tác giả chưa về thăm quê một lần. Câu hỏi được đặt ra không phải để trả lời mà gợi lên một cảm giác bâng khuâng, khó tả. Nó như một lời mời, vừa như một lời giới thiệu nhưng cũng như một sự tiếc nuối của chính tác giả đã lâu không về thăm thôn Vĩ. “Sao anh không về chơi thôn Vĩ” như một lời tự trách, tự trách mình.

Khung cảnh Vĩ Dạ dần hiện ra với bao cảnh sắc, vừa có nắng vừa có sắc màu rực rỡ, có hình ảnh cành trúc đung đưa trước ngõ nhà ai. Cái tài độc đáo của tác giả là khơi gợi những tưởng tượng mới cho chính người đọc

Không trực tiếp ở Vĩ Dạ, nhưng với nỗi nhớ Vĩ Dạ tha thiết, tác giả có thể hình dung ra cảnh mình đặt chân đến quê hương thân yêu. Mỗi câu thơ như trích dẫn một vẻ đẹp của nơi đây, không những thế, những từ ngữ dùng để miêu tả cảnh không chỉ đẹp mà còn gợi hình. Mọi thứ dường như hài hòa và phản chiếu một vẻ đẹp tinh tế, thuần khiết. Hình ảnh cây cau gợi vẻ đẹp thanh tao, cao vút vươn mình lên đón ánh nắng ban mai. Lọt vào đó là những tia nắng bình minh vừa rực rỡ vừa dịu dàng, như đang rải một cái nhìn thân thiện, mời gọi cho Vĩ Dạ. Nắng ở đây càng trở nên đẹp và lạ hơn khi được tác giả khoác lên nó bằng những từ ngữ “nắng mới tinh khôi mà cũng thật trong trẻo, không một gợn của một ngày dài đã qua.

Tác giả như dẫn dắt người đọc đi sâu hơn vào cảnh sắc thôn Vĩ, và bằng biện pháp so sánh, những mảnh vườn nơi đây đã trở thành những thứ mà dưới con mắt của một người nghệ sĩ được biến thành những chốn sơn thủy hữu tình: “Vườn ai xanh như ngọc bích”. “. Dường như cây cối thôn Vĩ quanh năm đều được tưới mát, từ “mướt” dùng ở đây quả thật không quá lời, xanh tươi, mơn mởn và tràn đầy sức sống. Nhịp thơ uyển chuyển kết hợp với những từ ngữ có tính tượng hình cao, khung cảnh nơi đây dường như đẹp huyền bí hơn, vừa có màu của mặt trời mọc, vừa có màu xanh của những khu vườn, vạn vật đều tươi tốt. mới, tràn đầy sức sống. Câu cuối khổ thơ 1 gợi nhiều suy nghĩ, liên tưởng nhất: “Lá tre che mặt phông”. Đó có phải là hình ảnh những chiếc lá tre sà xuống trên những khu vườn vuông vức xinh đẹp của xứ Huế, hay những cành trúc rủ xuống trước cửa những ngôi nhà xứ Huế. Đâu đó gợi sự e ấp e ấp của cô gái Huế với khuôn mặt phúc hậu, gợi vẻ đẹp duyên dáng mà kín đáo.

Những câu thơ sau cho tôi thấy một nét khác của xứ Huế, một sự thay đổi tâm trạng của nhân vật trữ tình:

“Gió theo gió, theo mây theo mây
Nước buồn, bông ngô đung đưa”

“Thuyền ai cập bến sông trăng
Cõng trăng đêm nay”

Những câu thơ cho ta thấy tâm trạng nặng trĩu của Hàn Mặc Tử, hai câu thơ đầu gợi lên cảnh chia ly, buồn man mác. Các từ “gió”, “mây” cùng với nhịp điệu của câu thơ càng làm cho cảnh chia ly thêm rõ nét. Gió mây thường là một cặp, thường quấn quýt với nhau nhưng ở đây “gió theo gió, mây theo mây”. Hoa rơi xuống nước là điều hiển nhiên, nhưng lại chất chứa một nỗi buồn đến nao lòng, nỗi chia li chia li ngày càng hiện hữu. Nhìn cảnh hoa trôi theo gió ta thấy được tâm trạng của nhà thơ. Lòng buồn rười rượi, không một chút cảm xúc nào chứa đựng. Hình ảnh vầng trăng không chỉ xuất hiện trong bài thơ này mà còn xuất hiện trong rất nhiều bài thơ nổi tiếng của các nhà thơ khác. Ánh trăng là biểu tượng của cái đẹp, tượng trưng cho hạnh phúc, bình yên. Đối với Hàn Mặc Tử, hình ảnh vầng trăng trong thơ gợi lên một niềm hi vọng, một niềm tin. Chỉ trong thơ mới có sông trăng, thuyền trăng. Nghệ thuật ẩn dụ của tác giả ở đây đậm chất thơ, mang đến cho ta niềm khao khát, chờ đợi. Nhưng nó lại mang đến một dự đoán, hay một sự ngờ vực rằng “Đêm nay sẽ đưa trăng về đúng lúc”. Lời thơ như một câu hỏi không lời giải đáp. Hai câu thơ diễn tả tâm trạng mong mỏi gặp gỡ nhưng đồng thời cũng bộc lộ nỗi lo lắng không nguôi.

Tuy ra đời đã lâu nhưng bài thơ đã chiếm được nhiều cảm xúc của người đọc bấy giờ và người đọc ngày nay. Nó không chỉ gợi vẻ đẹp thiên nhiên tươi đẹp mà còn là những cảm xúc sâu lắng, với niềm khát khao yêu đời, yêu người. Bài thơ là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ Hàn Mặc Tử, một tâm hồn nhạy cảm trước cuộc đời, yêu đời.

Phân tích 2 khổ thơ đầu của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu 9

Ai mua trăng em bán ạ
Trăng nằm yên trên cành liễu chờ đợi
Ai mua trăng em bán ạ
Đừng bán tình yêu và lời thề

Ai đã từng sinh ra và lớn lên trên cõi đời này mà không biết đến “lời trăng trối” nổi tiếng ấy của một nhà thơ rất nổi tiếng vào những năm ba mươi của thế kỷ XIX, vâng đó chính là Hàn Mặc Tử - một cái tên mãi in sâu trong lòng người đọc. Ông là “một hồn thơ mạnh mẽ nhưng luôn quằn quại, đau đớn, dường như có một sự đấu tranh, giằng xé quyết liệt giữa tâm hồn và xác thịt”. Ông đã “tạo ra cho thơ mình một thế giới nghệ thuật điên rồ, ma quái và xa lạ với đời thực”. Đoạn thơ còn là tình yêu thiên nhiên, yêu người tha thiết của Vĩ Dạ - nơi chứa đựng biết bao kỉ niệm và luôn sống mãi trong hồi ức của ông. Vì vậy, đọc bài thơ này ta thấy được một khía cạnh rất đẹp trong tâm hồn nhà thơ.

Bằng lời trách móc nhẹ nhàng, ngọt ngào như một lời mời gọi, Hàn Mặc Tử đã trở lại Đây thôn Vĩ Dạ trong giấc mơ:

Sao em không về chơi thôn Vĩ?
Hàng cau nắng mới ngước mặt lên
Vườn ai xanh như ngọc
Bìa lá trúc ngang hoàn chỉnh kiểu chữ

Cảnh thôn Vĩ Dạ với những vườn hoa trái xum xuê hiện lên thật nên thơ và trong lành. Đó là hàng cau thẳng tắp tắm mình trong “bình minh” tươi mát. Chưa hết, xa xa là hình ảnh “mặt trời chói chang và mặt trời vừa mọc” và rất gần là “vườn ai quá xanh như ngọc bích”. “So cool” gợi hình ảnh một cây nhung non tràn đầy sức sống xanh tươi. Thiên nhiên và con người hài hòa. Tạo tâm trạng xót xa, tiếc nuối cho tác giả.

Khổ thơ thứ hai đột ngột thay đổi sắc thái của cảnh vật:

Gió theo gió, theo mây, theo mây

Cũng trong không gian ấy là Đây thôn Vĩ Dạ nhưng thời gian đã chuyển từ “bình minh” sang chiều tà. Tâm trạng của nhân vật trữ tình cũng có sự thay đổi lớn. Trong con mắt nhà thơ, bầu trời hiện ra “Gió theo gió, mây theo mây” trong cảnh chia ly, ai oán. Biện pháp nhân cách hóa cho ta thấy điều đó. “Gió cuốn theo chiều gió” theo không gian riêng của nó và mây cũng vậy. Câu thơ tách thành hai vế đối nhau; mở đầu là hình ảnh “gió”, khép lại cũng là gió; Đầu câu thứ hai là “mây”, kết thúc cũng là “mây”. Trong cơn mơ Hàn Mặc Tử về với thôn Vĩ mà lòng man mác buồn, có lẽ vì mối tình đơn phương và những kỉ niệm đẹp với cảnh và người con gái xứ Huế mộng mơ mà làm nên tâm trạng ấy. Trời buồn, đất vui hơn khi:

Nước buồn hoa ngô nằm.
Thuyền ai cập bến sông trăng

Dòng sông Hương “buồn” trong buổi chiều dưới ánh trăng đã trở thành “dòng sông trăng” thơ mộng. Ghe đậu xào trên sông là “thuyền ai cập bến”, là một bức tranh thêm trữ tình, lãng mạn. Hình ảnh “con thuyền” và “sông trăng” thật đẹp và hài hòa.

Cõng trăng đêm nay?

Câu hỏi tu từ vang lên như sự mong mỏi, đợi chờ, mong gặp mặt “vầng trăng” sáng ngời của người thôn Vĩ trong lòng nhà thơ. Thế mới biết tấm lòng của nhà thơ đối với người em gái xứ Huế tha thiết đến nhường nào. Tác giả rất cô đơn cần người tâm sự, chỉ có ánh trăng mới hiểu được lòng thi nhân. Hàn Mặc Tử rất yêu Huế, dường như Huế và cảnh Huế không đáp lại tình yêu của tác giả, nó thật xa vắng, trống trải và xa vắng.

Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo sơ mi của tôi quá trắng để nhìn thấy
Sương mù ở đây
Bất cứ ai biết in đậm?

Vẫn là tâm trạng hân hoan đón “lữ khách phương xa” - người thôn Vĩ đến với mình, tâm trạng nhân vật trữ tình khép lại trong nỗi đau xót, hoài nghi “Tình ai biết đậm đà?”. “Ai” ở đây vừa chỉ người dân thôn Vĩ, vừa chỉ chính tác giả. Không biết người thôn Vĩ có còn thương mình không? Và không biết em có còn hứng thú với “áo anh trắng quá” hay không? Nỗi đau trong tình yêu là sự giễu cợt, mất lòng tin vào nhau. Nhân vật trữ tình đã rơi vào hoàn cảnh đó và thổ lộ nỗi lòng của mình để mọi người hiểu và thông cảm. Cái mới của thơ lãng mạn giai đoạn 1932-1945 cũng là ở đó.

Đây thôn Vĩ Dạ là một bức tranh đẹp về cảnh và người của một vùng quê sông nước qua tâm hồn thơ mộng, giàu trí tưởng tượng và yêu đời của một nhà thơ đa cảm. độc giả. “Tình trong mộng của kẻ đau thương ấy có sức bay lạ lùng” nhưng cũng bình dị, trong sáng và đẹp như Đây thôn Vĩ Dạ. Đây là một nghệ sĩ tài hoa, một trái tim luôn thổn thức yêu thương, một tâm hồn thơ đã biến những đau thương, bất hạnh của cuộc đời thành những đoá hoa thơ mộng, trong đó thơm nhất, thanh khiết nhất chính là Đây thôn Vĩ Dạ.

Phân tích 2 khổ thơ đầu của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu 10

Hàn Mặc Tử là nhà thơ có số phận đau thương nhưng là một trong những nhà thơ có nhiều sáng tạo trong phong trào Thơ mới. Ông đã để lại cho làng thơ Việt Nam nhiều tác phẩm có giá trị như “Gái quê”, “Thơ điên”,... Độc đáo và xúc động nhất là bài “Đây thôn Vĩ Dạ”. Đoạn thơ là một bức tranh quê sông nước tươi đẹp và là tiếng nói của một con người tha thiết yêu cuộc sống và con người. Tất cả những vẻ đẹp đó của bài thơ đã được ngòi bút Hàn Mặc Tử khắc họa một cách tinh tế và sâu sắc qua hai khổ thơ đầu:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Cõng trăng đêm nay”

Theo nhà thơ Quách Tấn - bạn thơ của Hàn Mặc Tử, bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được khơi nguồn từ một tấm bưu ảnh do một cô gái Huế tên là Hoàng Cúc gửi đến. Đó là một tấm bưu ảnh tả cảnh xứ Huế có dòng sông, có con thuyền, bến ngắm trăng hay cảnh bình minh. Lúc đó Hàn Mặc Tử đang điều trị bệnh phong ở Quy Nhơn. Nhận được tấm bưu ảnh và lời chúc của cô gái Huế, anh xúc động viết bài thơ này. “Đây thôn Vĩ Dạ” sau được in trong tập thơ “Nỗi đau”.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”.

Câu hỏi ấy chính là sự hóa thân của nhà thơ, sự hóa thân của nhà thơ vào cô gái Huế. Chỉ một câu nói, một câu hỏi nhưng chứa đầy yêu thương. Sao lâu rồi anh không về với thôn Vĩ bên dòng sông Hương thơ mộng, với người con gái anh yêu? Mặt khác, sắc thái tu từ ở câu thơ đầu còn là câu hỏi, lời tự trách: “sao em không về”? Huế đẹp sao em không về? Đó là một câu hỏi đau đớn và day dứt bởi việc trở lại Huế là điều không thể bởi nhà thơ đang ở giai đoạn cuối của bệnh tật. Nhưng cũng chính câu hỏi tu từ ấy lại là nguyên nhân khơi dậy những niềm mong nhớ, hoài niệm. Vì không về được nên nhà thơ đã hành hương trong tâm tưởng. Thôn Vĩ vì thế hiện lên lung linh trong nỗi nhớ.

“Hàng cau nắng mới ngẩng mặt lên”

Từ “nắng” được lặp lại hai lần gợi nên một bức tranh thơ mộng hữu tình của cảnh vườn ở xứ Huế. Nhớ về thôn Vĩ, nhà thơ nhớ ngay đến hình ảnh đầu tiên là cây cau - “hàng cau đầy nắng”. Vì cây cau là hình ảnh quen thuộc với mỗi thôn Vĩ. Cau là cây cao nên đón ánh nắng đầu tiên của một ngày mới. Không gian thôn Vĩ vì thế được đẩy lên cao, thoáng đãng và rộng rãi. Đặc biệt sau một đêm tắm mình dưới làn sương, những trái cau càng xanh hơn dưới nắng. Cụm từ “bình minh” cho ta cảm nhận đẹp đẽ về ánh nắng ban mai rực rỡ, trong trẻo. Câu thơ vẽ một hàng cau căng tràn sức sống vươn lên mạnh mẽ đón ánh nắng đầu tiên của buổi sớm mai. Ánh nắng trong lành, tinh khiết làm bừng sáng cả không gian khoáng đạt, rộng rãi.

“Vườn ai xanh mượt như ngọc”

“Câu thơ hay là câu thơ giàu sức gợi” (Lưu Trọng Lư). Quả thật, câu thơ gợi lên một không gian xanh mướt của thiên nhiên Vĩ Dạ, màu xanh mượt mà, bóng mỡ của cây cối khiến người đọc cảm nhận được một sức sống căng tràn, dịu dàng. Tác giả sử dụng phép so sánh “xanh như ngọc” để miêu tả sức sống và vẻ đẹp của thiên nhiên thôn Vĩ, một màu cao quý, lấp lánh và trong trẻo. Nếu không có một tình yêu tha thiết với đất và người Vĩ Dạ, có lẽ Hàn thi sĩ đã không gieo được những vần thơ trong trẻo như vậy. Bài viết của thầy Phan Danh Hiếu

“Vườn của ai”? không xác định nhưng mặc nhiên đó là khu vườn của các cô gái Huế. “Smooth” là một tính từ khác với “smooth” vì “smooth” chỉ gợi lên sự mượt mà, còn “mượt” gợi lên sự tươi sáng, tươi tắn của cảnh vật. Bốn chữ “vườn ai mướt quá” như một lời cảm phục, thán phục, khen ngợi cũng như một lời cảm ơn thầm lặng đến chủ vườn đã chăm sóc cho khu vườn thêm đẹp.

“Lá trúc che ngang hoàn toàn mặt chữ”.

Phải chăng trong tâm trí nhà thơ bỗng hiện lên khuôn mặt chữ điền thấp thoáng sau hàng tre. Đoạn thơ có sự hài hòa giữa hai hình ảnh thiên nhiên và con người. Lá trúc mảnh mai, mặt chữ điền gợi vẻ đẹp e ấp, kín đáo, duyên dáng, rất nữ tính, rất Huế.. Tất cả tạo nên sự hài hòa giữa con người và cảnh vật.

Gió theo gió, mây theo mây
Nước buồn hoa ngô đồng

Bài thơ thu hồn xứ Huế. Sông Hương, núi Ngự hiện lên với vẻ đẹp đặc trưng của xứ Huế, dòng sông Hương luôn chậm rãi chảy, như một “bản tình ca chậm dành riêng cho xứ Huế” (Hoàng Phủ Ngọc Tường). Hai bên bờ sông là những vườn ngô với những bông hoa khẽ lay động. Tuy nhiên, trong mắt Hàn Mặc Tử, cảnh vật hiện lên cách biệt: “Nước buồn hoa ngô đồng nằm”. Sự nhân cách hóa khiến dòng sông như mang theo nỗi niềm khôn nguôi của nhà thơ. Đó là khi tâm trí đã nhuốm màu với thế giới bên ngoài. Nỗi buồn của thi nhân dường như bao trùm lên cảnh vật: gió, mây, dòng sông, hoa ngô đồng... Ngước nhìn trời thấy mây gió chia lìa; nhìn xuống sông, thấy sông trở nên “buồn thiu”; Nhìn quanh cảnh chỉ thấy những bông ngô đồng khẽ "rung rinh". “Lay” là động từ diễn tả những chuyển động rất nhẹ nhàng, phải quan sát thật tinh tế mới cảm nhận được nét vẽ kỳ diệu ấy. Ca dao xưa cũng có câu:

“Ai về Giồng Dừa qua cánh đồng
Gió lay cây sậy bỏ tôi buồn”

Đúng! Đằng sau những khung cảnh ấy là tâm trạng của một con người mang một nỗi buồn chia ly, một tình yêu đơn phương vô vọng.

“Thuyền ai cập bến sông trăng
Cõng trăng đêm nay”

Đọc bài thơ, người đọc như lạc vào cõi mộng. Có bến trăng, sông trăng, thuyền chở trăng. Trăng dưới ngòi bút tài hoa của Hàn Mặc Tử bỗng trở nên huyền ảo, tràn ngập vũ trụ, tạo nên một bầu không khí nửa thực nửa hư, như trong cõi mộng. Mặt trăng là biểu tượng của vẻ đẹp, hạnh phúc và niềm vui. Với Hàn Mặc Tử, trong khung cảnh ấy, vầng trăng vốn có nghĩa là “một bấu víu, như tri kỷ, tri kỷ” thì giờ đây nó chỉ còn là niềm mong ước, mong gặp và cả sự xao xuyến. về sự chậm trễ và kinh doanh dở dang. Bởi vậy, câu thơ của Từ vang lên như một câu hỏi đau đáu, một nỗi day dứt đầy day dứt “Có mang trăng về kịp đêm nay không?”.

“Đêm nay” là đêm nào, phải chăng đây là giới hạn cuối cùng của cuộc đời nhà thơ - khi cuộc đời người đó là một cuộc chạy đua với thời gian. "Đêm nay" là ranh giới giữa sự sống và cái chết. Phải chăng vì thế mà câu hỏi tu từ vang lên khẩn thiết: “Đêm nay có đưa trăng về kịp không?”. Liệu con thuyền ấy có bao giờ cập bến trước khi Hàn Mặc Tử về cõi vĩnh hằng? Từ “kịp thời” vì thế vừa chứa đựng tâm trạng nhớ nhung, vừa yêu thương, vừa bi đát, hoài nghi của con người.

"Cõng trăng đêm nay?" là câu hỏi chứa đựng sự day dứt, mong mỏi và sợ hãi. Một sự lo lắng và hi vọng vô định trong tâm trạng nhà thơ. Hàn Mặc Tử cảm thấy thời gian trôi trong khi mình bơ vơ. Chính vì thế người đọc càng hiểu rõ hơn sự thôi thúc trong lời mời gọi ở câu thơ đầu, càng đồng cảm với khát vọng sống mãnh liệt của nhà thơ khi cái chết cận kề.

Thành công của đoạn thơ nói riêng và bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” nói chung là nhờ một số yếu tố nghệ thuật đã được Hàn Mặc Tử vận ​​dụng sáng tạo: nhiều biện pháp tu từ nhằm tăng sức gợi cho hình ảnh như: : so sánh, điệp ngữ, câu hỏi tu từ, phép đối chiếu tương phản; ngôn ngữ thơ giản dị, mộc mạc; giọng thơ dịu dàng, tình cảm. Tất cả đã hòa quyện vào nhau chắp cánh cho ngòi bút nhà thơ thăng hoa cùng cảm xúc.

Phân tích 2 khổ thơ đầu của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu 11

Hàn Mặc Tử là một nhà thơ có tâm hồn nhạy cảm, những sáng tác của anh được sáng tác và đi vào lòng người một cách rất tự nhiên và sâu sắc, để lại nhiều suy ngẫm cho người đọc. Một trong những bài thơ như vậy là bài Đây thôn Vĩ Dạ, một bài thơ gợi nhiều liên tưởng đến xứ Huế thơ mộng, với vẻ đẹp vừa giản dị vừa đáng yêu như chính cô gái mà tác giả đang thầm yêu.

Không chỉ vậy, bài thơ còn thể hiện niềm khát khao được sống và được yêu tha thiết của nhà thơ. Đặc biệt, hai khổ thơ đầu tả cảnh thanh bình, hình ảnh người đẹp e ấp bên lũy tre lá và tâm trạng thay đổi thất thường của nhân vật trữ tình trong bài thơ.

Khác với những bài thơ khác, mở đầu bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” không phải là một câu miêu tả hay một câu cảm thán mà là một câu hỏi tu từ:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Cảm hứng bài thơ được rút ra từ tấm thiệp Hoàng Thị Kim Cúc viết cho Hàn Mặc Tử, câu chữ khiến cảm xúc tác giả ùa về, gợi nhớ một vùng quê xứ Huế quyến rũ. Dòng đầu tiên của bài thơ, mở đầu bằng một câu hỏi lạ nhưng cũng là một câu hỏi tu từ không có đáp án, càng làm cho mạch cảm xúc của bài thơ trở nên dạt dào khó tả. Dù không được ở gần, không được một lần về thăm Vĩ Dạ nhưng với nỗi nhớ đã đưa Hàn Mặc Tử trở lại Huế. Câu hỏi tu từ như một lời trách móc, hờn dỗi của người con gái muốn thủ thỉ: sao đã lâu rồi anh chưa về thăm xứ Đà một lần.

Câu hỏi không nhằm tìm câu trả lời nên gợi một cảm giác bơ vơ, khó tả. Lời nói như một lời mời gọi, vừa như một lời giới thiệu nhưng cũng như một sự tiếc nuối của chính tác giả đã lâu không có dịp về thăm lại chốn cũ: “Sao anh không về thăm thôn Vĩ? - một sự tự vấn, tự trách mình.

Khung cảnh Vĩ Dạ dần hiện ra với nhiều cảnh sắc, vừa có nắng vừa có màu rực rỡ và có hình ảnh hàng tre lá đung đưa trước ngõ nhà ai. Cái tài độc đáo của tác giả là khơi gợi những tưởng tượng mới cho chính người đọc.

Không trực tiếp sống ở Vĩ Dạ nhưng với nỗi nhớ da diết về Vĩ Dạ, tác giả có thể nhân bản mình mà đặt chân về thăm thôn Vĩ thân yêu. Mỗi câu thơ như trích dẫn một vẻ đẹp của nơi đây, không những thế những từ ngữ dùng để tả cảnh cũng vừa đẹp vừa gợi. Mọi thứ đều hài hòa và phản chiếu một vẻ đẹp tinh tế, thuần khiết. Hình ảnh cây cau gợi vẻ đẹp thanh tao, cao vút vươn mình lên đón ánh ban mai. Lọt vào đó là những tia nắng bình minh vừa rực rỡ vừa dịu dàng như rải một cái nhìn thân thiện mà mời gọi cho Vĩ Dạ. Nắng ở đây càng trở nên đẹp và lạ hơn khi được tác giả khoác lên mình chiếc áo có dòng chữ “nắng mới”. Mặt trời ấy thật thanh khiết nhưng cũng thật trong trẻo, không một gợn sóng của một đêm dài đã trải qua.

Tác giả như dẫn dắt người đọc đi sâu hơn vào cảnh thôn Vĩ. Để so sánh, những khu vườn nơi đây đã trở nên quyến rũ trong mắt người đọc qua con mắt nghệ sĩ của Hàn Mặc Tử: “Vườn ai xanh như ngọc”. Dường như cây cối thôn Vĩ quanh năm tươi tốt. Từ “mướt” dùng ở đây quả thật không quá, xanh tươi, mượt mà và tràn đầy sức sống. Nhịp thơ uyển chuyển kết hợp với những từ ngữ có tính tượng hình cao, khung cảnh nơi đây dường như đẹp huyền bí hơn, vừa có màu của mặt trời mọc, vừa có màu xanh của những khu vườn, vạn vật đều tươi tốt. mới và tràn đầy sức sống.

Hình ảnh vầng trăng không chỉ xuất hiện trong bài thơ này mà còn là chất liệu cho nhiều bài thơ của nhiều nhà thơ khác. Ánh trăng là biểu tượng của cái đẹp, tượng trưng cho hạnh phúc, bình yên. Đối với Hàn Mặc Tử, hình ảnh trong thơ gợi lên một niềm tin yêu, một niềm hi vọng. Chỉ có trong thơ ca dòng sông trăng và hình ảnh con thuyền chở trăng mới thơ mộng đến thế. Nghệ thuật ẩn dụ này đã đem lại cảm giác mong chờ, mong ước nhưng đồng thời cũng là một sự dự cảm, băn khoăn: “có đưa trăng về kịp đêm nay không?”. Lời thơ như một câu hỏi không lời giải đáp. Hai câu thơ diễn tả tâm trạng mong mỏi được gặp gỡ nhưng đồng thời cũng bộc lộ nỗi băn khoăn không nguôi.

Tuy ra đời đã lâu nhưng bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ nói chung và cảm nhận của em về hai khổ thơ đầu của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ nói riêng đã tạo cho người đọc biết bao cảm xúc từ ngàn xưa. chí kim. Nó không chỉ gợi vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn tiêu biểu cho hồn thơ Hàn Mặc Tử, một hồn thơ nhạy cảm, muốn giao hòa với cuộc đời và con người.

Phân tích hai khổ thơ đầu của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu 12

Vĩ Dạ là một ngôi làng cổ đẹp nổi tiếng bên bờ Hương Giang, ngoại thành cố đô Huế. Cảnh vật thanh bình, thơ mộng. Với Hàn Mặc Tử, chắc có nhiều kỷ niệm đẹp? Câu mở đầu như một lời mời gọi, như một giọng trách móc nhẹ nhàng:

" Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Đồng thời, đó cũng là câu HMT tự vấn, tự trách mình. Đây cũng là hình thức bày tỏ cái cớ để tác giả nói về thôn Vĩ, nhớ thôn Vĩ cũng như người dân thôn Vĩ.

“Nắng hàng cau mới ngước nhìn,
Vườn ai xanh như ngọc
Lá tre che ngang hoàn chỉnh kiểu chữ"

Cảnh Vĩ Dạ được cho là hàng cau với mặt trời mới mọc, bình minh rực rỡ. Là màu xanh cây trái của “vườn ai”, ngỡ ngàng, bâng khuâng rồi thốt lên “xanh mượt như ngọc”. Màu xanh mượt, bóng. Một so sánh thật đắt giá gợi tả sắc xuân xuân của “vườn ai”? Thiên nhiên thôn Vĩ hiện lên đẹp đẽ, ấm áp, rực rỡ và thanh khiết như chính tình cảm của tác giả dành cho nơi đây.

Tỏa sáng giữa vẻ đẹp của thiên nhiên, thấp thoáng sau hàng tre thấp thoáng một bóng người: “mặt chữ điền”. Nét vẽ “Lá trúc đi ngang” là nét vẽ huyền ảo gợi tả vẻ kín đáo, yểu điệu của người con gái thôn Vĩ. Còn nói “vườn ai” thì đó là vườn xuân của người thiếu nữ. Hàng cau, nắng, màu xanh ngọc bích của vườn cây, lá tre và mặt chữ điền, một bức tranh thiên nhiên có chủ đề màu sắc, nét vẽ đầy chỉnh chu của tác giả, nét nào cũng tinh tế, thanh thoát, gợi bao niềm thương nhớ.

Khung cảnh thiên nhiên thôn Vĩ đã thay đổi, dường như đã trở nên buồn hơn, mọi thứ dường như bị ngăn cách. Một vùng quê thơ mộng thoáng đãng. Có gió, mây, hoa và nước. Cảnh đẹp đầy thơ mộng, cổ điển. Mây gió chia đôi. Dòng nước buồn man mác, man mác. Hoa ngô đồng “đẻ” nhẹ nhàng cũng gợi nỗi buồn man mác. Những hình ảnh ấy cùng với nhịp thơ chậm rãi, nhẹ nhàng tạo nên một nét buồn riêng của xứ Huế, đồng thời cũng là nỗi buồn của tác giả.

" Gió nối tiếp gió, mây nối tiếp mây,
Nước buồn, bông ngô đung đưa”

Khổ một là nói đến “mặt trời mới”, mặt trời bình minh. Câu 2, nói về “bến sông trăng”, bến trong nỗi nhớ. Vầng trăng tình yêu đợi chờ. “Thuyền” chắc là thuyền của cô gái? Bài thơ trăng đẹp nhất trong thơ Hàn Mặc Tử. Có bến sông trăng, có con đò trăng. Thật thơ mộng, lãng mạn:

“Thuyền ai cập bến sông trăng
Cõng trăng đêm nay?”

Bến và thuyền như được tắm mình trong ánh trăng dịu hiền, vừa thơ mộng, vừa mơ hồ, huyền ảo. Liệu đêm nay có chở trăng về kịp không”, câu thơ đầy ám ảnh, như một lời van xin, một mong con thuyền sẽ trở về đúng lúc, nếu không, số phận kia sẽ bị bỏ rơi, sẽ rơi vào tuyệt vọng và đau đớn.

Câu thơ của Hàn Mặc Tử viết về bến sông trăng và con đò gợi nhớ đến câu ca dao “thuyền có nhớ bến, bến khăng khăng đợi thuyền”. Và như vậy cảm nhận được 2 khổ thơ đầu của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ thấm đẫm một nỗi niềm nhớ nhung, một sự chờ đợi mơ hồ, mơ hồ và bâng khuâng.

Phân tích hai khổ thơ đầu của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu 13

Hàn Mặc Tử là nhà thơ nổi bật của phong trào thơ mới với nhiều bài thơ đặc sắc. Nhưng có lẽ, trong giới làm thơ, chưa ai thấy một số phận nghiệt ngã như Hàn Mặc Tử. Và số phận éo le ấy đã được dự đoán qua những biệt danh buồn của anh như Phong Trần (nghĩa là gió bụi) hay Lê Thành (nghĩa là tiếng nước mắt). Tác phẩm của Hàn Mặc Tử có vẻ hơi buồn, dù mọi thứ trong thơ có nhẹ nhàng đến đâu. Phân tích hai khổ thơ đầu của bài này, chúng ta sẽ hiểu rõ điều này.

Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử là ba đỉnh cao của phong trào thơ mới Việt Nam, trong đó Hàn Mặc Tử là một hiện tại thơ rất khác.

Thơ dữ dội của Hàn Mặc Tử luôn chứa đựng những mâu thuẫn giữa cảnh vật và tinh thần. Thế giới ngoài kia tươi đẹp nhưng anh mắc bệnh tật nên sự hưởng thụ luôn bị hạn chế. Vì vậy, trong các tác phẩm thơ của mình, ông luôn thể hiện khát vọng sống, khát vọng đồng cảm với ngoại cảnh, với cuộc đời.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được sáng tác năm 1938, được tác giả khơi nguồn cảm hứng từ mối tình đơn phương của Hàn Mặc Tử với một thiếu nữ ở Huế. Bài thơ này được cho là nằm trong tập thơ “Thơ Điên” sau đổi thành “Nỗi Đau” như cuộc đời của một nhà thơ tài hoa đã cam chịu.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” luôn được nhiều thế hệ yêu thích và có 3 ý kiến ​​cho bài thơ. Thứ nhất, bài thơ là tiếng nói của trái tim, là sự trăn trở của một mối tình thầm kín; sau đó là những lời yêu thương về một vùng quê thanh bình và thứ ba, bài thơ là khát vọng sống của nhà thơ, khát vọng được cảm thông, sẻ chia với cuộc đời. Và hai khổ thơ thể hiện rõ tình cảm tác giả gửi gắm qua bài thơ:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Hàng cau nắng mới ngước nhìn.
Vườn ai xanh như ngọc
Lá tre che ngang hoàn chỉnh mặt chữ.

Gió nối tiếp gió, mây nối tiếp mây,
Nước buồn, hoa ngô đồng...
Thuyền ai cập bến sông trăng kia,
Liệu trăng có về kịp đêm nay

Thơ bao giờ cũng là sự phản ánh cuộc sống qua lăng kính của thi nhân, qua tâm hồn sắc sảo của thi nhân. Vì vậy, thơ luôn mang những tâm tư, tình cảm mà người nghệ sĩ muốn gửi gắm, thể hiện. Còn Hàn Mặc Tử thì luôn sáng tạo, không ngừng chiêm nghiệm cuộc đời để cho ra đời nhiều tác phẩm đặc sắc. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một tác phẩm tiêu biểu.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Câu hỏi tu từ này là sự phân đôi của nhà thơ. Lúc này Hàn Mặc Tử đang hóa thân thành một cô gái Huế và hỏi với giọng nhẹ nhàng trách móc, ai oán. Từ "chơi" có vẻ là một cách chơi chữ. Vì tác giả có thể dùng từ "thăm" nhưng lại làm mất đi sự thân thuộc gần gũi.

Câu thơ cũng có thể là lời tự trách, tự hỏi sao Huế đẹp thế mà anh không ra chơi. Câu hỏi ấy đau đáu, bởi có lẽ khi viết bài thơ này, nhà thơ đang phải chịu đựng nỗi đau của căn bệnh phong hủi giai đoạn cuối. Vì thế, được ra Huế chơi đã trở thành niềm ao ước của Hàn Mặc Tử.

Dù không thể trở lại Huế nhưng trong tâm trí nhà thơ, thiên nhiên thôn Vĩ vẫn lung linh, tươi đẹp:

“Nắng hàng cau mới ngước mặt lên
Vườn ai xanh như ngọc
Lá tre che ngang hoàn chỉnh kiểu chữ"

Ba câu thơ đã khắc họa thành công một bức tranh thôn Vĩ thơ mộng, từ xa đến gần. Từ “nắng” gợi ra trước mắt người đọc một không gian ngập tràn ánh sáng. Còn cau là loài cây đặc trưng của thôn Vĩ, thân thẳng tắp với tán lá xanh mướt khiến thực khách phải thốt lên “vườn nhà ai xanh như ngọc”. Tuy nói là “vườn của ai” nhưng ai cũng biết đó là khu vườn của một cô gái Huế.

“Xanh mượt như ngọc”. Xanh như ngọc là màu xanh thuần khiết, màu xanh tinh túy kết tinh từ nắng, từ sương. Màu xanh ngọc ấy đã tạo nên một khu vườn hữu tình và thôn Vĩ vì thế mà trở nên đẹp hơn. Nhưng bức tranh quê ấy hoàn hảo hơn, có thần tình hơn khi thấp thoáng bóng dáng thiếu nữ: “lá tre che mặt phông”. Như lũy tre lá, Đây thôn Vĩ Dạ nổi tiếng với cây trúc luôn được trồng trước ngõ. Vì thế, trong tâm trí nhà thơ, khuôn mặt chữ điền thấp thoáng sau hàng tre.

Trước hết, người đọc có thể thấy rõ, tất cả cảnh vật và con người tạo nên một bức tranh hài hòa giữa con người và thiên nhiên. Nhưng có lẽ nếu thơ chỉ có niềm vui, niềm lạc quan yêu đời thì đã không phải là thơ Hàn Mặc Tử. Vì thế, sau khổ thơ đầu rạng ngời nắng, ở khổ thơ thứ hai giọng điệu thơ đã chuyển sang niềm day dứt về sự chia ly:

“Gió theo gió, theo mây theo mây
Nước buồn hoa ngô nằm.”

Với hai câu thơ này, vẻ đẹp đặc trưng của xứ Huế được thể hiện rõ nét. Đó là dòng Hương trôi, là vườn trộm, trên kia “gió theo chiều gió”, mây đi lối mây. Dẫu biết mây và gió là hai hiện tượng không thể tách rời, nhưng vì gió có thổi thì mây mới bay được. Tuy nhiên, trong câu thơ của Hàn Mặc Tử, gió và mây chia tay, nước buồn mang một tâm trạng khó tả.

“Thuyền ai cập bến sông trăng
Cõng trăng đêm nay”

Hai câu thơ tiếp theo vẫn là dòng sông Hương, kinh thành Huế mộng mơ nhưng nay đã không còn nắng, màu xanh ngọc của Vĩ Dạ giờ là một không gian tràn ngập ánh sáng của trăng. Và thuyền trở thành thuyền trăng, sông trở thành sông trăng và bến là bến trăng.

Bến trăng, thuyền trăng đã nhiều lần xuất hiện trong thơ ca, nhưng sông trăng là một hình ảnh mới. Vì thế, câu thơ như đưa người đọc vào cõi mộng. Và "Bạn có thể mang mặt trăng trở lại thời gian cho đêm nay?" là câu hỏi mong đợi, hồi hộp, lo lắng và nghi hoặc, khẩn thiết; Đó cũng chính là câu hỏi mà nhà thơ tự hỏi mình. Nhà văn ý thức được rằng, nếu đêm nay trăng không “về kịp” thì tôi sẽ mãi mãi chìm trong đau đớn, tuyệt vọng.

Qua việc phân tích hai khổ thơ đầu của bài Đây thôn Vĩ Dạ có thể thấy, thành công của hai khổ thơ là nhờ các biện pháp tu từ như điệp ngữ, đặt câu hỏi, so sánh bằng liên tưởng. Bằng những nét vẽ nghệ thuật, Hàn Mặc Tử đã khắc họa nên một khung cảnh thơ mộng, tràn đầy sức sống nhưng cũng mang nỗi buồn, nỗi lòng của một thi nhân chịu nhiều bất hạnh.

Phân tích khổ thơ 1, 2 Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu 14

Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất trong phong trào Thơ Mới Việt Nam. Thơ Hàn Mặc Tử có một “diện mạo” độc đáo, cá tính và cũng đầy bí ẩn. Bên cạnh những vần thơ chứa đựng nhiều cảm xúc và hình ảnh trăng máu đầy ám ảnh, “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong số rất ít bài thơ có hình ảnh trong sáng, trong trẻo và giàu cảm xúc với tình yêu của nhà thơ. cho thôn Vĩ và người con gái xứ Huế. Ở hai khổ thơ đầu, nhà thơ đã tái hiện một cách sinh động bức tranh thiên nhiên xứ Huế và những tình cảm, cảm xúc chân thực nhất của mình.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Câu thơ mở đầu như một câu hỏi, nhưng ẩn chứa trong đó là lời trách móc rất nhẹ nhàng và tình cảm. Trong câu hỏi ấy còn có lời mời gọi tha thiết của cô thôn Vĩ đối với tác giả. Đó cũng có thể là lời tự trách của tác giả, là niềm mong ước thầm kín của nhà thơ: Trở về thăm thôn và người thôn Vĩ. Câu thơ không dùng từ “thăm chơi” mà dùng từ “đi chơi” với hàm ý mang sắc thái gần gũi, tự nhiên, thân mật. Hai câu thơ tiếp theo là bức tranh thiên nhiên khu vườn nhỏ thôn Vĩ trong hồi ức của nhà thơ:

“Nắng hàng cau mới ngước mặt lên
Vườn ai xanh như ngọc”

Có thể thấy nhà thơ không tả cảnh mà chỉ gợi cảnh, gợi những hình ảnh ấn tượng, đẹp đẽ nhất. Những hàng cau cao thẳng tắp dưới ánh nắng bình minh như mở ra khung cảnh thanh bình, khoáng đạt của thôn Vĩ. Nắng mới đã làm đẹp cho cây cau, nắng sớm trải đều trên cây cau tạo nên vẻ đẹp hài hòa, thống nhất, là sự hài hòa giữa thiên nhiên và cảnh vật.

Câu thơ “Vườn ai xanh như ngọc” khiến người đọc có cảm giác như nhà thơ đang đi giữa khu vườn thôn Vĩ. Tính từ “mướt”, “xanh” và phép so sánh độc đáo “nhẵn như ngọc” gợi ấn tượng về một khu vườn xanh tươi, sạch bóng như màu xanh của ngọc bích. Đó là một khu vườn quê đẹp mộc mạc trong nắng mai.

Sự xuất hiện bất ngờ của con người trong câu thơ “Lá tre che mặt chữ điền” đã làm cho bức tranh phong cảnh thêm sinh động, có lẽ đây chính là chủ nhân của khu vườn. Dáng vẻ có phần kín đáo, bẽn lẽn của người Huế, khuôn mặt chữ hiền thấp thoáng sau rặng tre lá giăng ngang. Có thể nói, chỉ với bốn dòng ở khổ thơ đầu, Hàn Mặc Tử đã phác họa rõ nét thiên nhiên cũng như con người thôn Vĩ: mảnh vườn tươi đẹp, con người ngay thẳng, nhân hậu.

Bước ra khỏi khu vườn nhỏ ở thôn Vĩ, tác giả đưa người đọc đến với thế giới của những tình cảm dịu êm, tha thiết nhưng cũng đầy trăn trở, lo toan của nhà thơ. Nỗi buồn chia ly, cảm giác tội lỗi của sự chia ly được thể hiện rõ nét qua bài thơ “Gió theo gió, mây theo mây”. Câu thơ gợi nhịp điệu êm đềm, nhẹ nhàng của dòng sông và trạng thái khác nhau của mây, gió. Mây và gió vốn dĩ là một cặp hình ảnh chỉ sự gắn bó, không thể tách rời nhưng trong câu thơ của Hàn Mặc Tử, ta thấy gió và mây không đi cùng nhau mà đi ngược chiều nhau. dường như không liên quan. Thực ra lấy gió thổi mây bay, lấy gió sông làm sóng, nhưng ở đây mây gió tách rời nhau, thể hiện sự đối lập trong cảm xúc của nhà thơ. Mây gió không hòa nên dòng nước không gợn sóng, chỉ buồn nhìn bông ngô đồng lay nhẹ. Bức tranh sông tuy đẹp nhưng lại ảm đạm, lạnh lẽo, trống trải, chất chứa nỗi buồn, sự cô đơn, mất mát của nhà thơ trước cuộc đời, cuộc đời.

“Thuyền ai cập bến sông trăng
Cõng trăng đêm nay?”

Dù mang tâm trạng buồn, cô đơn nhưng nhà thơ không mất hi vọng vào sự yêu thương, đáp trả. Tình yêu của tác giả không chỉ dành cho cô gái thôn Vĩ mà còn dành cho thiên nhiên và con người nơi đây. Cảnh sông trở nên huyền ảo, nên thơ và lung linh, dòng sông không còn là dòng sông mà là dòng sông trăng nơi tràn ngập ánh trăng sáng. Con thuyền không chỉ chở ánh trăng mà còn chở niềm hi vọng nhỏ nhoi của nhà thơ. "Cõng trăng đêm nay?" Câu hỏi thể hiện sự băn khoăn, trăn trở, giữa màn sương mù dày đặc của tuyệt vọng và đau thương, trong tâm hồn thi nhân vẫn nhen nhóm một niềm hy vọng nhỏ nhoi. Phải chở “đúng giờ đêm nay” chứ không phải đêm nào khác, có lẽ vì nhà thơ quá cô đơn, trống trải hay chờ đợi quá lâu, chỉ có trăng mới hiểu được nỗi lòng thầm kín của nhà thơ. nhà thơ. Bằng nghệ thuật tu từ và dùng từ gợi tả, nhà thơ đã đem đến một bức tranh thiên nhiên đẹp nhưng đầy tâm trạng. Nhịp thơ cũng như các phép điệp ngữ được sử dụng tạo nên sự đối lập trong từng câu thơ, các hình ảnh trong thơ được nhân cách hóa độc đáo tạo nên một bài thơ trữ tình độc đáo và sâu sắc.

Qua hai khổ thơ đầu của bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, nhà thơ Hàn Mặc Tử đã đưa người đọc mở rộng tầm mắt, hiểu thêm về thiên nhiên và con người xứ Huế thơ mộng. Bên cạnh đó ta cũng phần nào hiểu được những tâm tư, nỗi buồn sâu kín trong lòng tác giả. Một ngôi làng nhỏ ven sông Hương nhờ Hàn Mặc Tử đã trở thành một hình ảnh đẹp, trong trẻo và đậm chất Huế.

Đăng bởi: BNC.Edu.vn

Xem thêm: Cách chơi Bull Bull - bí quyết hốt bạc cho anh em cược thủ

Chuyên mục: Tài Liệu Học Tập

Xem thêm Phân tích 2 khổ thơ đầu của bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

Phân tích hai khổ thơ đầu Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử Gồm 14 bài văn mẫu dưới đây không chỉ giúp các em học sinh lớp 11 có thêm nhiều ý tưởng hay cho bài viết của mình mà còn biết cách cảm nhận vẻ đẹp của bức tranh làng quê đất nước, cũng như giọng nói của một người con. Yêu đời, yêu người.

Phân tích 2 khổ thơ đầu của bài Đây thôn Vĩ Dạ đã đưa người đọc mở rộng tầm mắt, hiểu biết về thiên nhiên và con người xứ Huế. Bên cạnh đó ta cũng phần nào hiểu được những tâm tư, nỗi buồn sâu kín trong lòng tác giả. Bên cạnh bài văn phân tích khổ thơ 1, 2 Đây thôn Vĩ Dạ, các em cũng có thể xem thêm: phân tích khổ thơ 1 Đây thôn Vĩ Dạ, phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ.

Lập dàn ý phân tích 2 khổ thơ đầu của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

phác thảo số 1

1. Mở bài

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một kiệt tác tiêu biểu của Hàn Mặc Tử. Hai khổ thơ đầu của bài thơ như một khúc ngâm trữ tình đẹp đẽ, giàu sức gợi.

2. Cơ thể

+ Câu hỏi tu từ tha thiết, vừa như trách móc, vừa như mời gọi.

+ Hàng cau thẳng tắp vươn mình đón nắng -> nét thanh khiết, tươi mát

+ Cành non trong màu xanh của lá tràn đầy sức sống, trong sáng và tinh khiết

+ Vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng, thanh tao, nhã nhặn của người con gái Huế hiện lên thật duyên dáng

+ Dòng nước cũng được nhân hóa với nỗi lòng “buồn” bồng bềnh

+ Dòng sông soi bóng bởi ánh trăng mờ ảo, con thuyền thong thả nằm trên bến sông Thương

+ “Đêm nay có đưa trăng về kịp” - câu thơ như một lời tâm sự, một câu hỏi nhưng cũng là một sự trông đợi, hi vọng đưa ánh trăng trở lại đúng lúc.

3. Kết luận

Khung cảnh mang theo cảm xúc, dư vị hoài cổ của nhà thơ với cái nhìn tinh tế, sâu sắc, chỉ qua hai khổ thơ ta thấy được tình yêu tha thiết của nhà thơ đối với cuộc sống và thiên nhiên.

dàn ý số 2

1. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, đoạn trích

2. Thân bài:

Câu 1: Cảnh vườn thôn Vĩ và tình người tha thiết:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Hàng cau nắng mới ngước nhìn.
Vườn ai xanh như ngọc
Lá tre che ngang hoàn chỉnh mặt chữ.

+ Câu hỏi tu từ mở đầu mang nhiều sắc thái: lời tự vấn, lời quở trách nhẹ nhàng, lời mời gọi ân cần.

+ Ba câu sau gợi lên vẻ đẹp sơn thủy hữu tình của thôn Vĩ trong khoảnh khắc bình minh: cảnh vật thanh khiết, trong trẻo, xanh tươi dưới ánh nắng ban mai; người kín tiếng, tốt bụng. Đằng sau bức tranh phong cảnh ấy là một tâm hồn nhạy cảm, yêu thiên nhiên, tha thiết con người và nỗi niềm trăn trở của tác giả.

Khổ 2: Cảnh trời, mây, sông và nỗi đau cô đơn, chia ly:

Gió nối tiếp gió, mây nối tiếp mây,
Nước buồn, hoa ngô đồng...
Thuyền ai cập bến sông trăng kia,
Cõng trăng đêm nay?

+ Hai câu đầu bao quát toàn cảnh với hình ảnh gió mây ngăn cách đôi bên, “nước chảy buồn, hoa ngô đồng đung đưa” gợi một nỗi buồn cô đơn.

+ Hai câu sau tả cảnh dòng sông trong đêm trăng lung linh, huyền ảo, vừa thực vừa mộng. Đằng sau cảnh vật là tâm trạng đau đớn, trăn trở và khát khao cháy bỏng của nhà thơ.

*Nghệ thuật:

– Ngôn từ chọn lọc, hình ảnh độc đáo, giàu sức gợi, có sự đan xen giữa thực và ảo.

Sử dụng hiệu quả các biện pháp nghệ thuật: so sánh, nhân hóa, ẩn dụ.

- Câu hỏi tu từ phù hợp với tâm trạng.

– Giọng điệu khi tha thiết, khi đắm say, khi khắc khoải, buồn bã

3. Kết luận:

Đoạn thơ kết tinh sự sáng tạo và phong cách nghệ thuật độc đáo của Hàn Mặc Tử, thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống, yêu cuộc sống tha thiết của nhà thơ.

Phân tích 2 khổ thơ đầu Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu 1

Khi nhận xét về những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ Mới, nhà phê bình văn học Đỗ Lai Thúy đã viết “Nếu Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính là dòng lãng mạn thuần khiết, nếu Xuân Diệu và đặc biệt là Huy Cận, là dòng lãng mạn kết thành chùm tượng trưng. yếu tố… thì Hàn Mặc Tử là sự hài hòa của lãng mạn, kỳ ảo, thậm chí siêu thực”. Thật vậy, mặc dù cuộc đời của Hàn Mặc Tử ngắn ngủi và chịu nhiều đau thương, tuyệt vọng nhưng nhìn vào thơ anh, người ta vẫn thấy chất chứa trong đó những cảm xúc yêu đời mãnh liệt. tê liệt đến mức quằn quại và đau đớn. Ngoài ra, điểm khác biệt trong thơ Hàn Mặc Tử là chất lãng mạn pha lẫn với thể thơ Đường luật xưa cũ, cùng với sự phá cách sáng tạo trong nghệ thuật, mang đến cho người đọc những vần thơ độc đáo, ấn tượng. bức tượng. Đọc thơ Hàn Mặc Tử, người ta thấy vẻ đẹp lãng mạn, trong sáng, thuần khiết thực sự nhưng cũng có những hình ảnh dung dị, điên rồ, siêu thực khiến người đọc phải băn khoăn, suy nghĩ. về hồn thơ lạ lùng nhất của thơ Mới. Đây Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ hay nhất của Hàn Mặc Tử, là tác phẩm xuất sắc hàng đầu của phong trào Thơ mới, thể hiện gần như toàn bộ phong cách sáng tác của ông, trong đó hai khổ thơ đầu người ta thấy một Hàn Mặc Tử có hồn. mà yêu đời, yêu cuộc sống sâu sắc qua bức tranh quê trong lành, trữ tình.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Hàng cau nắng mới ngước nhìn.
Vườn ai xanh như ngọc
Lá tre che ngang mặt chữ hoàn chỉnh.”

Hàn Mặc Tử mở đầu tác phẩm bằng một câu hỏi mở rất nhẹ nhàng, rất Huế, mang cảm xúc lắng đọng của một bức tranh quê thanh bình và gợi “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Chủ ngữ “anh” trong câu thơ khiến người đọc không khỏi ngỡ ngàng, phải chăng là câu hờn dỗi, trao duyên của một cô gái Huế với một chàng trai phong lưu. bẽn lẽn không chịu bày tỏ sự cảm thông, bỏ mặc chị chờ đợi. Rồi cũng có thể là một lời mời dễ thương của một người con xứ Huế, muốn một người bạn phương xa một vài lần được về thăm quê hương thơ mộng này. Nhưng rồi, nếu nhìn ở một góc độ khác, có lẽ câu hỏi “Sao em không về thăm thôn Vĩ?” là lời tác giả đang tự vấn, tự nhắc mình về một lần về thăm thôn Vĩ sau bao nhiêu năm xa cách. năm xa. Hai chữ “không về” gắn liền với quãng đời đau khổ của Hàn Mặc Tử, đáng thương hơn, nó là một ẩn ý về những linh cảm chẳng lành của nhà thơ khi mắc phải căn bệnh phong. , tuyệt vọng vì không thể trở lại Huế. Người ta chỉ có thể nhớ về thôn Vĩ, nhớ về người mình yêu trong những kỉ niệm đẹp nhất.

Có thể nói, câu hỏi tu từ đầu bài thơ không chỉ là nhịp cầu mở ra bức tranh xứ Huế mà còn bộc lộ sâu sắc những trăn trở của tác giả về mảnh đất cố đô. Ở nơi ấy có tình yêu, có cuộc sống và có người con gái mà bao thi nhân hằng mong ước, chỉ tiếc rằng tất cả đã trở thành hư không trước nghịch cảnh của bệnh tật. Trong Nỗi nhớ xứ Huế, Hàn Mặc Tử đã dùng những câu thơ chân chất, đẹp đẽ để gợi lên bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ nên thơ, trong trẻo và tràn đầy sức sống. Bức tranh mở đầu bằng hình ảnh “nắng” được lặp lại hai lần trong câu thơ:

“Hàng cau nắng mới ngẩng mặt lên”

Đó là buổi bình minh rực rỡ, ánh sáng tràn ngập khắp nơi, chập chờn, xen kẽ qua từng tán cau xanh. Hàn Mặc Tử vẽ từng nét hiện thực mượt mà, giàu sức gợi trong bức tranh quê buổi sớm, trên nền sáng ấm áp của nắng mới, trên đó là hàng cau thẳng tắp, xanh tươi, giản dị. Hình ảnh “hàng cau đầy nắng” là hình ảnh mà Hàn Mặc Tử dành riêng cho xứ Huế, bởi cây cau là biểu tượng đặc trưng của vùng đất cố đô, luôn vươn mình mạnh mẽ trên nền trời xanh thẳm, đón những tia nắng ấm áp. Áp lực đầu tiên trong ngày hoàn toàn. Khung cảnh từng vòm lá cau xanh mướt tắm mình trong nắng vàng lấp lánh sương mai ẩn hiện khiến lòng người thêm khoan khoái, vui tươi, mở ra một bức tranh quê trong lành, thơ mộng. “Nắng mới mọc” là những từ ngữ giản dị mà Hàn Mặc Tử viết về buổi bình minh, đó là ánh nắng ban mai trong lành, dịu dàng, không phải là cái nắng chói chang ban trưa mà là những tia nắng chói chang. lần đầu tiên sau một đêm dài, trong trẻo, ấm áp tràn đầy sức sống, là biểu tượng của sự khởi đầu tươi mới. Nghĩ xa hơn hình ảnh “nắng mới” có lẽ là ẩn dụ cho tâm hồn nghệ sĩ khi cầm trên tay tấm bưu ảnh của cố nhân, một cảm xúc dịu dàng và đầy hi vọng.

Trong không gian tràn ngập nắng mới, là sự hiện diện của “vườn ai”, một khu vườn với vẻ trù phú, tươi tốt, mập mạp ở mọi ngóc ngách qua hai chữ “ướt át”, đầy gợi cảm. Bên cạnh đó, biện pháp so sánh “xanh như ngọc” cũng mang đến vẻ đẹp thực nên thơ cho bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ Dạ, khiến người đọc dễ liên tưởng đến hình ảnh một vườn Huế xanh non, từng tán lá còn nguyên vẹn. sương đọng tắm mình trong ánh nắng ban mai dịu dàng, mang lại cảm giác thật trong trẻo, ngọc bích và tươi mát. Đặc biệt với từ “ai” trong “vườn ai” đã gợi ẩn chứa chất trữ tình, làm tăng thêm sức sống, sự hòa hợp của con người với thiên nhiên tươi đẹp. Đồng thời, mở đầu bài thơ “Lá tre che mặt phông” gợi lên vẻ đẹp của con người xứ Huế chân chất, nhân hậu và nồng hậu. Phong cách “thơ họa thư họa”, lấy vẻ đẹp mỏng manh, giản dị của lá trúc để làm nổi bật vẻ đẹp yêu kiều, dịu dàng của khuôn mặt con người. Hàn Mặc Tử nhớ về con người Huế với vẻ đẹp dịu dàng, đan xen với những hoài niệm xa xăm về một người phụ nữ Huế với những phẩm chất nổi bật, thủy chung, dịu dàng và một khuôn mặt xinh đẹp, nhân hậu. .

Sau những rung cảm yêu đời, lạc quan từ bức tranh thiên nhiên rực rỡ, tràn đầy năng lượng, Hàn Mặc Tử tiếp tục đưa người đọc trở về với bức tranh thiên nhiên cảnh khuya, với cảnh thuyền, cảnh trăng, và dòng sông Hương êm ả, tĩnh lặng. Từ khung cảnh ngập tràn ánh sáng của buổi bình minh, đến khung cảnh của đêm tối, người ta đã tinh tế nhận ra sự chuyển đổi cảm xúc của tác giả từ niềm vui tràn trề trong cơ thể, sang sự lo lắng, bấp bênh, nhiều lo lắng, hoang mang trước thiên nhiên hoang vắng lạnh giá.

“Gió nối tiếp gió, mây nối tiếp mây,
Nước buồn, hoa ngô đồng...
Thuyền ai cập bến sông trăng kia,
Cõng trăng đêm nay?”

Hàn Mặc Tử viết về cảnh mây và gió, đó là những thứ luôn đi cùng nhau, mây di chuyển nhờ gió, dường như chúng luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nhưng khi đọc câu thơ “Gió đi theo gió, mây đi theo mây” cũng là cảnh gió và mây nhưng lại có vẻ tách biệt, ngược chiều gợi sự chia ly, đứt đoạn mà đối với Hàn Mặc Tử đó là sự chia ly của tác giả với thế giới, những linh cảm đau đớn trước một căn bệnh hiểm nghèo. Đặc biệt, thể thơ tả cảnh đóng khung khi tác giả lặp lại hai lần từ “mây” và “gió”, ngắt nhịp 4/3 ngắt câu thơ làm đôi mang đến sự thất vọng và cô đơn khó tả. Dòng sông Hương vốn hàng nghìn năm lịch sử vẫn êm đềm, lặng lẽ chứng kiến ​​biết bao biến cố đau thương của dân tộc, không còn bỡ ngỡ trước những đổi thay của thế cuộc, nhưng khi đi vào thơ Hàn Mặc Tử, dòng sông dường như để chở bao cảm xúc dạt dào của nhà thơ qua hai chữ “buồn nước”. Đọc thơ Hàn Mặc Tử, ta tưởng như tác giả đang đứng trước dòng sông Hương, mắt nhìn xa xăm, lòng man mác một nỗi buồn vô tận đang lan tỏa khắp không gian, thật đúng với câu “Cảnh nào cảnh nấy”. đây? Cảnh không mặc nỗi buồn/ Người buồn có vui bao giờ” của Nguyễn Du. Ngoài ra, hình ảnh “hoa ngô đẻ” khiến người đọc hiểu sâu sắc hơn tình cảm của nhà thơ, hoa ngô đồng vốn không màu, không vị, tàn úa trong đất trời, là ẩn dụ sâu sắc cho kiếp người bạc mệnh. thê lương, lặng lẽ tồn tại như một chiếc bóng cô đơn, lẻ loi giữa cuộc đời, chỉ biết mặc cho dòng đời xô đẩy và suy nghĩ, nhưng thật xót xa cho kiếp “bông ngô đồng”. Ngoài ra, cả bài thơ “Nước buồn hoa ngô nằm” đã mở ra một không gian bao la, vô tận nhưng không có hơi ấm, chỉ có sự lạnh lẽo, u ám bao trùm, xóa nhòa đi mọi vẻ đẹp. rực rỡ với bao mộng tưởng mà tác giả gợi lên trong khổ thơ đầu.

Nhấn mạnh sự chuyển đổi cảm xúc của tác giả giữa hai khổ thơ từ vui sướng, yêu đời sang buồn bã, tuyệt vọng. Vì quá đau đớn, xót xa cho kiếp người bất hạnh, Hàn Mặc Tử tìm về với vầng trăng, người bạn tri kỷ của thi sĩ, vẫn gắn bó với ông trong nhiều vần thơ vừa trong sáng vừa lạ lùng. kỳ lạ, tuổi thơ không thể diễn tả. Hình ảnh vầng trăng ở Đây thôn Vĩ Dạ hiện lên đẹp dịu dàng trong câu “Thuyền ai chở bến sông trăng ấy”, ánh trăng vàng nhạt phủ lên con thuyền nan đang xuôi theo dòng nước, lấp lánh mặt sông. ánh trăng sáng. Một khung cảnh quá đỗi hư ảo và thân thương dường như đã phần nào xua đi nỗi buồn trong tâm hồn tác giả. Tuy nhiên, Hàn Mặc Tử vẫn không quên được hết những hoang mang, lo toan cho cuộc đời trong câu thơ “Đêm nay có đưa trăng về kịp không?”, đó là cảm giác băn khoăn, lo lắng, linh cảm chẳng lành. cuộc đời ngắn ngủi của anh sắp kết thúc. Anh sợ mình không còn kịp nhìn thấy ánh trăng đẹp, không còn nhìn thấy “ánh trăng trắng” của cuộc đời - người con gái xứ Huế đã mang đến cho anh những niềm vui cuộc sống, hy vọng về một tình yêu mới. tình yêu đẹp giữa những giông tố cuộc đời bủa vây lấy thân xác khô héo của em, dù đó chỉ là tấm bưu ảnh em gửi.

Cuộc đời Hàn Mặc Tử thật ngắn ngủi và đau thương, hồn thơ dạt dào bao khát vọng yêu đời nhưng đằng sau đó là nỗi buồn đau đến tột cùng. Chính điều đó đã tạo nên một chất thơ trong trẻo, trong sáng và vô cùng phức tạp khi thường xuyên thấy sự xuất hiện của những yếu tố lạ, lãng mạn, điên như Hoài Thanh, cũng chính vì hồn thơ Hàn Mặc Tử là “Một nguồn sáng tỏa ra từ một tâm hồn đau khổ tột cùng. Ta chỉ thấy thấp thoáng chút dấu vết của một mối tình chết yểu… Chỉ trong thơ Hàn Mặc Tử mới thấy một nỗi đau mãnh liệt như thế. Lời ca như máu." Đây Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất cho phong cách sáng tác của Hàn Mặc Tử vừa đẹp, vừa ẩn chứa nỗi buồn, tuyệt vọng. những dòng thơ ngắn ngủi, khiến người ta không khỏi băn khoăn, ngậm ngùi cho một kiếp người nghệ sĩ ngắn ngủi và bất hạnh.

Phân tích 2 khổ thơ đầu của bài Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu 2

Đây Đây thôn Vĩ Dạ là tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của Hàn Mặc Tử. Bài thơ lấy cảm hứng từ tấm thiệp có bức tranh phong cảnh của Hoàng Cúc - người mà Hàn Mặc Tử thầm thương trộm nhớ - tác phẩm được viết vào những năm cuối đời khi nhà thơ đang điều trị bệnh hiểm nghèo tại trại. Phong Tuy Hòa.

Hai khổ thơ đầu của bài thơ là một bức tranh về cảnh và người xứ Huế vừa trong sáng, êm đềm lại vừa đượm buồn.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
Hàng cau nắng mới ngước mặt lên
Vườn ai xanh như ngọc
Lá tre che ngang hoàn chỉnh kiểu chữ"

Bài thơ mở đầu bằng một câu hỏi tu từ “Sao anh không về chơi thôn Vĩ”. Câu hỏi vừa là lời nhắc nhở, vừa là lời mời gọi, cũng có thể là lời trách móc nhẹ nhàng. Dường như tác giả đang phân bua để tự vấn bản thân về một việc lẽ ra đã làm từ lâu nhưng không thực hiện được: Về thăm thôn Vĩ Dạ. Những sắc thái đan xen gói gọn trong một câu hỏi tu từ nhẹ nhàng như vậy cho thấy niềm khao khát trở lại Vĩ Dạ mãnh liệt của nhà thơ, câu hỏi được thốt ra mang một nỗi niềm thầm kín không dễ bày tỏ. .

Sau câu hỏi thiết tha ấy, những ấn tượng về một thôn Vĩ thanh bình, yên ả dần hiện ra trong kí ức nhà thơ:

“Nắng hàng cau mới ngước mặt lên
Vườn ai xanh như ngọc
Lá tre che ngang hoàn chỉnh kiểu chữ"

Trong khu vườn xinh đẹp ấy, “hàng cau nắng” trong trẻo và tinh khiết đã thu hút và thu hút sự chú ý của nhà thơ. Những cây cau vươn mình đón những tia nắng đầu tiên mà thiên nhiên ban tặng, khoe vẻ thanh khiết dưới ánh nắng lung linh. Vẻ đẹp của khu vườn đẹp đến nỗi nhà thơ chợt thốt lên đầy ngạc nhiên nhưng cũng tràn đầy niềm vui thích thú: “Vườn ai sao xanh như ngọc”. Tính từ “mướt” kết hợp với từ chỉ mức độ “quá” gợi vẻ đẹp mượt mà, óng ả, tươi tắn, đầy sức sống của cây cối trong vườn. Hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” gợi vẻ đẹp yêu kiều, quý phái của khu vườn, những chiếc lá xanh mượt được “nắng hàng cau” chiếu rọi tạo nên màu xanh ngọc bích tuyệt đẹp. Cả khu vườn không chỉ được tưới mát bởi sương đêm và ánh nắng mặt trời mà còn được sự chăm sóc khéo léo của con người khiến chúng thêm tươi đẹp.

Giữa khung cảnh tươi đẹp ấy là hình ảnh người con gái Huế hiện lên với vẻ đẹp duyên dáng mà kín đáo:

“Lá trúc che ngang hoàn toàn kiểu chữ”

Khuôn mặt đầy chữ nhân thấp thoáng sau những chiếc lá tre mảnh mai gợi lên vẻ đẹp dịu dàng, nhân hậu. Dáng người thật kín đáo, ý nhị và nhẹ nhàng như chính bản chất của con người xứ Huế. Phải yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống biết bao nhiêu thì tác giả mới lưu giữ trong tâm trí mình những hình ảnh đẹp đẽ, sinh động như vậy.

Đằng sau bức tranh hài hòa giữa cảnh và người có lẽ là một nỗi trăn trở không nguôi của một cái “tôi” chứa đầy tâm sự:

“Gió theo gió, mây theo mây
Nước buồn hoa ngô nằm.”

Nghệ thuật nhân hóa được tác giả vận dụng khéo léo để miêu tả sự chuyển động, trạng thái của cảnh vật “Gió theo gió, mây theo mây”. Cách ngắt nhịp 4/3 giống như cắt đôi câu thơ như chia đôi vế trái. Hình ảnh gió và mây trong tự nhiên vốn dĩ đi liền với nhau, mây bay theo gió, khi gió thổi thì mây sẽ bay. Vì thế gió mây trong câu thơ hiện lên với cảnh chia phôi, gió mây ngược chiều, hai con đường, hai hướng. Đối với người sáng tác, đó là điều phi lý, nhưng với sự mặc cảm tự ti của người viết lời lúc bấy giờ, đó là giai điệu phù hợp.

Dòng nước sông Hương dường như thấu hiểu tâm trạng của nhà thơ và cũng mang nặng một nỗi lòng “buồn”. Dòng nước lặng lẽ trôi, những bông ngô đồng khẽ đung đưa bên bờ, nước trôi hoa trôi - cảnh vật có vẻ trống trải, động mà tĩnh lặng, tất cả dường như đều có nỗi buồn man mác. Có lẽ vì lúc này tác giả cảm nhận cảnh vật không phải bằng đôi mắt thường nữa mà bằng chính tâm trạng của mình. Đó là tiếng lòng của một người mang nặng mặc cảm sắp ra đi, từ biệt cõi đời mà tâm hồn vẫn tha thiết sống.

“Thuyền ai cập bến sông trăng
Cõng trăng đêm nay?”

Không gian đêm trăng trên sông mở ra đầy huyền ảo, thực, mộng. Trăng hòa vào làn nước trong xanh tạo nên vẻ lung linh, nên thơ. Dòng sông trăng đang đưa thuyền về bến, bến trăng đang đợi thuyền dừng lại, đêm nay liệu thuyền có chở trăng về kịp bến không? Câu hỏi tha thiết, chất chứa cả sự hồi hộp, mong đợi, chất chứa đầy lo lắng, bâng khuâng. Từ “đúng lúc” giản dị ấy gợi mở biết bao suy nghĩ về nhà thơ trẻ. Hơn ai hết, Hàn Mặc Tử hiểu thực tại ngắn ngủi, cái chết cận kề nên phải tranh thủ từng phút, từng giây, chạy đua với thời gian, với cuộc đời. Nếu con đò còn “đúng giờ” để chở trăng về bến thì “ta” còn nói được chuyện ấy, còn nếu không “đúng lúc” thì thi sĩ tội nghiệp sẽ rơi vào nỗi cô đơn, niềm đau muôn thuở. . Câu thơ cuối bài thật buồn và thương cảm, có lẽ với Hàn Mặc Tử được sống một mình cũng đã là hạnh phúc lắm rồi.

Cảnh sắc thiên nhiên và tâm huyết yêu đời của nhà thơ được thể hiện qua hai khổ thơ thật trong sáng, độc đáo và giàu sức biểu cảm. Qua đó, ta thấy một tâm hồn yêu đời, thiết tha với cuộc sống mãnh liệt của tác giả, từ đó biết trân trọng cuộc sống, trân trọng những phút giây của hiện tại mà không tiếc nuối.

Phân tích 2 khổ thơ đầu của bài Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất – Văn mẫu 3

Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào thơ mới. Anh là người tài hoa nhưng bạc mệnh khi mắc phải căn bệnh phong quái ác từ khi còn rất nhỏ. Có lẽ vì thế mà trong thơ anh luôn tồn tại hai thế giới song song, một bên trong sáng, trong sáng, một bên đầy ma mị, cuồng loạn. Người thôn Vĩ Dạ này ra đời vào năm 1938 khi ông đang mắc phải căn bệnh hủi quái ác. Bài thơ lấy cảm hứng từ một tấm bưu ảnh có vẽ phong cảnh xứ Huế và lời chào của Hoàng Cúc, người con gái mà Hàn Mặc Tử đã từng đem lòng yêu mến. Đặc biệt, qua hai khổ thơ đầu, tình yêu thiên nhiên, con người Vĩ Dạ và những nỗi niềm thầm kín của nhà thơ được bộc lộ rõ ​​nét.

Hai khổ thơ đầu của bài thơ miêu tả cảnh Vĩ Dạ của xứ Huế và nỗi cô đơn, mất mát, trống vắng của tác giả khi phải xa cách thế gian, con người.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Hàng cau nắng mới ngước mặt lên
Vườn ai mượt mà xanh như ngọc
Bìa lá trúc ngang hoàn chỉnh kiểu chữ
Gió theo gió, mây theo mây
Nước buồn, hoa ngô đồng nằm
Thuyền ai cập bến sông trăng
Cõng trăng đêm nay?”

Mở đầu bài thơ là một câu hỏi với giọng điệu đau đáu, dường như người dân thôn Vĩ đang mời gọi, xót xa nhà thơ sao không về thăm nữa.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Nhưng thực ra đây chỉ là câu hỏi tự vấn của nhà thơ bởi trong thâm tâm ông luôn mong một lần được “về chơi thôn Vĩ”. Hai chữ “về chơi” đã biến Vĩ Dạ trở thành một chốn thân thương mà thi nhân đã gắn bó cả tâm hồn.

Về với Vĩ Dạ, nhà thơ muốn nhìn thấy những “hàng cau” cao vút, những khu vườn um tùm cây cỏ, muốn nhìn thấy khuôn mặt thẹn thùng qua kẽ lá trúc.

“Nắng hàng cau mới ngước mặt lên
Vườn ai mượt mà xanh như ngọc
Lá tre che ngang hoàn chỉnh kiểu chữ"

Cảnh sắc Vĩ Dạ được mở ra từ xa đến gần, từ cao xuống thấp, góc nào cũng đẹp mà thơ mộng, tràn đầy sức sống trong buổi sớm mai. Trong hành trình “thăm quan” Vĩ Dạ bằng tâm tưởng, cái nhìn đầu tiên của nhà thơ dừng lại ở hình ảnh “nắng hàng cau, nắng mới lên”. Hai từ “nắng” trong cùng một câu thơ khiến ta cảm nhận được cả một không gian tràn ngập nắng sớm, trong lành và tinh khiết. “Nắng hàng cau” là thứ nắng đặc trưng của Vĩ Dạ và Hàn Mặc Tử đã đặc biệt tinh tế phát hiện ra vì Vĩ Dạ là nơi trồng rất nhiều cau. Những hàng cau cao vút, vươn thẳng lên trời đón những giọt nắng ban mai đầu tiên, và đó cũng là lúc cả thành phố Huế thức dậy trong cái mát lành, trong lành.

Trong ánh nắng ban mai tinh khiết ấy, khu vườn “ai” hiện lên căng tràn sức sống, ngào ngạt mật ngọt.

“Vườn ai mướt xanh như ngọc”

Đại từ “ai” mơ hồ, không biết ai là của ai vì khu vườn ấy chính là khu vườn trong tâm trí nhà thơ. Khu vườn tràn ngập cây cối xanh “mượt mà”. Chỉ một từ “mượt mà” cũng khiến người đọc có cảm giác như cả một khu vườn xanh mướt, tươi tốt hiện ra trước mắt. Ngoài ra, hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” còn gợi cho ta hình ảnh khu vườn phủ đầy sương đêm được mặt trời chiếu sáng. Từng cành, phiến lá hiện ra lung linh, lấp lánh như một khối ngọc bích khổng lồ. Đoạn thơ không chỉ là tả cảnh mà còn là sự ngưỡng mộ của nhà thơ khi ca ngợi cảnh vườn Vĩ Dạ với một tình yêu thiết tha.

Không chỉ say mê nhìn ra vườn, ngắm ánh ban mai, Hàn Mặc Tử còn đắm mình trong ánh mắt của người Vĩ Dạ:

“Lá trúc che ngang hoàn toàn kiểu chữ”

Hẳn đó là một nét cách điệu của nhà thơ, bởi khuôn mặt người hiện ra sau lá trúc, vừa thực vừa hư ảo vô cùng. Những đường nét trong bức tranh thơ không chỉ là thiên nhiên mà còn là con người, làm cho khung cảnh vườn Vĩ Dạ bỗng trở nên ấm áp, sinh động.

Gương mặt người sau vòm lá thấp thoáng gợi lên vẻ rụt rè, e thẹn với tính cách kín đáo là một nét rất riêng của người phụ nữ Huế. Câu thơ của Hàn Mặc Tử hẳn được gợi ra từ một câu ca dao rất quen thuộc của người xứ Huế:

“Mặt em vuông như chữ điền
Da tôi trắng, áo tôi đen
Trái tim tôi có đất và trời
Có chữ nhân, có chữ trung”.

Bởi vậy, câu thơ của Hàn Mặc Tử không chỉ đậm chất dân gian xứ Huế mà còn gợi lên vẻ đẹp tâm hồn của con người nơi đây vừa giản dị vừa giàu lòng trung nghĩa.

Khổ thơ đầu tái hiện bức tranh phong cảnh Vĩ Dạ vừa tươi đẹp, vừa ấm áp, tràn đầy sức sống. Đồng thời cũng thể hiện tình cảm gắn bó tha thiết của nhà thơ với Vĩ Dạ quê hương và khát khao được giao tiếp với cuộc đời bất chấp những trở ngại của bệnh tật.

Bước sang khổ thơ thứ hai, cảnh vật và không gian của Vĩ Dạ không còn tĩnh mà có sự vận động, biến đổi. Vẫn là những cảnh đẹp mang nét đặc trưng của xứ Huế, nhưng nay là cảnh non nước, mây trời:

“Gió theo gió, mây theo mây
Nước buồn, hoa ngô đồng nằm
Thuyền ai cập bến sông trăng
Cõng trăng đêm nay?”

Bức tranh thơ mộng được mở rộng với mây trời và dòng sông Hương bồng bềnh vừa hùng vĩ vừa phóng khoáng. Dòng sông, hoa ngô, gió, mây, tất cả đều mang hồn xứ Huế, gợi lên một nét yên bình, tĩnh lặng rất riêng của nơi đây.

Nhà thơ đã tả cảnh sông Hương dưới trăng khuya. Đó là dòng sông lấp lánh ánh vàng huy hoàng, những con thuyền cũng đượm ánh trăng cập bến bến sông trăng. Ánh trăng đã làm cho dòng sông Hương càng thêm thơ mộng, vừa hư ảo vừa tĩnh lặng trong đêm khiến ai một lần bắt gặp cũng khó lòng quên được!

Đằng sau bức tranh là tâm trạng mà nhà thơ muốn gửi gắm. “Mây và gió” là hai thứ luôn song hành với nhau, nhưng ở đây Hàn Mặc Tử đã nhân cách hóa chúng và miêu tả chúng như không thể chia lìa. Mây một nẻo, gió một nẻo, đã xa rồi chia xa. Phải chăng đó cũng chính là tâm trạng của nhà thơ lúc đang yêu đơn phương nơi xa và phải chia tay cuộc đời vì bạo bệnh. Nỗi buồn của nhà thơ đã lan tỏa và đã hòa vào thiên nhiên.

Nỗi buồn ấy cũng hòa cùng dòng nước. Nhìn dòng sông lững lờ trôi, Hàn Mặc Tử thấy dòng sông cũng “buồn thiu”. Dòng sông Hương mang bao cảm xúc của thi nhân, nó cũng mang nặng một nỗi buồn. Đó là tâm trạng của một cái tôi cô đơn giữa đất trời, giữa cuộc đời khi nhìn quanh chỉ thấy những bông ngô đồng đung đưa, dòng sông quạnh hiu.

Nỗi buồn cô đơn của nhà thơ càng thấm thía hơn khi đặt mình giữa trời, trăng, nước. Nước mênh mông, ánh trăng lành lạnh, màn đêm tĩnh mịch, cảnh vật như một cõi hiu quạnh đến quái dị bởi chính anh cũng cô đơn, lạc lõng giữa cuộc đời vì căn bệnh dày vò.

Tuy nhiên, trên tất cả là khát khao được đồng cảm với cuộc đời, khát khao được con người hóa giải những nỗi đau. Có lẽ vì thế mà trên dòng sông hiu quạnh ấy thấp thoáng bóng “thuyền ai”:

“Thuyền ai cập bến sông trăng
Cõng trăng đêm nay?”

Khao khát, khao khát hy vọng, nhưng Hàn Mặc Tử nhận ra một thực tế phũ phàng: không một ai, không một ai có thể sưởi ấm một trái tim cô đơn, lạc lõng, nên nhà thơ mong ai đó “cõng trăng ngược thời gian đêm nay”.

Vầng trăng muôn đời là nguồn cảm hứng bất tận, là vẻ đẹp vĩnh cửu mà ai cũng hướng tới. Đối với nhà thơ, trăng còn là người bạn, tri kỷ, tri kỷ thì với Hàn Mặc Tử, trăng còn hơn thế. Ông khao khát trăng, hướng tới cái đẹp mà ánh trăng mang lại nên ông hiểu, dù đau đớn vì bệnh tật, Hàn Mặc Tử vẫn luôn hướng tới cái đẹp của cuộc sống và nghệ thuật. Đọc thơ Hàn Mặc Tử, người ta cảm phục một tài năng và một nghị lực sống phi thường của một con người biết vượt lên hoàn cảnh để hiến dâng cho đời.

Bốn câu thơ là một bức tranh sông nước, mây trời nhưng thấm đẫm tâm trạng buồn bã, cô đơn, khát khao được giao tiếp với cuộc đời của tác giả.

Hai khổ thơ đầu của bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là sự kế thừa thể thơ truyền thống với thể thơ bảy chữ và cũng thể hiện nỗ lực cách tân thơ ca của Hàn Mặc Tử. Hình ảnh thơ rất mộc mạc, giản dị, đời thường, lời nói như lời ăn tiếng nói hàng ngày, tất cả tạo nên một chất thơ rất hiện đại.

Qua hai khổ thơ, người đọc không chỉ cảm nhận được bức tranh phong cảnh thôn Vĩ Dạ vừa đẹp vừa thanh bình mang nét đặc trưng xứ Huế mà còn cảm nhận được một nỗi buồn cô đơn của Hàn Mặc. Chết khi phải chia lìa cõi đời vì bệnh tật và trong một tình yêu vô vọng.

Phân tích 2 khổ thơ đầu của bài Đây thôn Vĩ Dạ - Văn mẫu 4

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” luôn được nhiều thế hệ yêu thích và có 3 ý kiến ​​cho bài thơ. Thứ nhất, bài thơ là tiếng nói của trái tim, là sự trăn trở của một mối tình thầm kín; sau đó là những lời yêu thương về một vùng quê thanh bình và thứ ba, bài thơ là khát vọng sống của nhà thơ, khát vọng được cảm thông, sẻ chia với cuộc đời. Và hai khổ thơ thể hiện rõ tình cảm tác giả gửi gắm qua bài thơ:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Hàng cau nắng mới ngước nhìn.
Vườn ai xanh như ngọc
Lá tre che ngang hoàn chỉnh mặt chữ.

Gió nối tiếp gió, mây nối tiếp mây,
Nước buồn, hoa ngô đồng...
Thuyền ai cập bến sông trăng kia,
Cõng trăng đêm nay

Thơ bao giờ cũng là sự phản ánh cuộc sống qua lăng kính của thi nhân, qua tâm hồn sắc sảo của thi nhân. Vì vậy, thơ luôn mang những tâm tư, tình cảm mà người nghệ sĩ muốn gửi gắm, thể hiện. Còn Hàn Mặc Tử thì luôn sáng tạo, không ngừng chiêm nghiệm cuộc đời để cho ra đời nhiều tác phẩm đặc sắc. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một tác phẩm tiêu biểu.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Câu hỏi tu từ này là sự phân đôi của nhà thơ. Lúc này Hàn Mặc Tử đang hóa thân thành một cô gái Huế và hỏi với giọng nhẹ nhàng trách móc, ai oán. Từ "chơi" có vẻ là một cách chơi chữ. Vì tác giả có thể dùng từ "thăm" nhưng lại làm mất đi sự thân thuộc gần gũi.

Câu thơ cũng có thể là lời tự trách, tự hỏi sao Huế đẹp thế mà anh không ra chơi. Câu hỏi ấy đau đáu, bởi có lẽ khi viết bài thơ này, nhà thơ đang phải chịu đựng nỗi đau của căn bệnh phong hủi giai đoạn cuối. Vì thế, được ra Huế chơi đã trở thành niềm ao ước của Hàn Mặc Tử.

Dù không thể trở lại Huế nhưng trong tâm trí nhà thơ, thiên nhiên thôn Vĩ vẫn lung linh, tươi đẹp:

“Nắng hàng cau mới ngước mặt lên
Vườn ai xanh như ngọc
Lá tre che ngang hoàn chỉnh kiểu chữ"

Ba câu thơ đã khắc họa thành công một bức tranh thôn Vĩ thơ mộng, từ xa đến gần. Từ “nắng” gợi ra trước mắt người đọc một không gian ngập tràn ánh sáng. Còn cau là loài cây đặc trưng của thôn Vĩ, thân thẳng tắp với tán lá xanh mướt khiến thực khách phải thốt lên “vườn nhà ai xanh như ngọc”. Tuy nói là “vườn của ai” nhưng ai cũng biết đó là khu vườn của một cô gái Huế.

“Xanh mượt như ngọc”. Xanh như ngọc là màu xanh thuần khiết, màu xanh tinh túy kết tinh từ nắng, từ sương. Màu xanh ngọc ấy đã tạo nên một khu vườn hữu tình và thôn Vĩ vì thế mà trở nên đẹp hơn. Nhưng bức tranh quê ấy hoàn hảo hơn, có thần tình hơn khi thấp thoáng bóng dáng thiếu nữ: “lá tre che mặt phông”. Như lũy tre lá, Đây thôn Vĩ Dạ nổi tiếng với cây trúc luôn được trồng trước ngõ. Vì thế, trong tâm trí nhà thơ, khuôn mặt chữ điền thấp thoáng sau hàng tre.

Phân tích hai khổ thơ đầu của bài Đây thôn Vĩ Dạ, trước hết người đọc có thể thấy rõ, tất cả cảnh vật, con người tạo nên một bức tranh hài hòa giữa con người và thiên nhiên. Nhưng có lẽ nếu thơ chỉ có niềm vui, niềm lạc quan yêu đời thì đã không phải là thơ Hàn Mặc Tử. Vì thế, sau khổ thơ đầu rạng ngời nắng, ở khổ thơ thứ hai giọng điệu thơ đã chuyển sang niềm day dứt về sự chia ly:

“Gió theo gió, theo mây theo mây
Nước buồn hoa ngô nằm.”

Với hai câu thơ này, vẻ đẹp đặc trưng của xứ Huế được thể hiện rõ nét. Đó là dòng Hương trôi, là vườn trộm, trên kia “gió theo chiều gió”, mây đi lối mây. Dẫu biết mây và gió là hai hiện tượng không thể tách rời, nhưng vì gió có thổi thì mây mới bay được. Tuy nhiên, trong câu thơ của Hàn Mặc Tử, gió và mây chia tay, nước buồn mang một tâm trạng khó tả.

“Thuyền ai cập bến sông trăng
Cõng trăng đêm nay”

Hai câu thơ tiếp theo vẫn là dòng sông Hương, kinh thành Huế mộng mơ nhưng nay đã không còn nắng, màu xanh ngọc của Vĩ Dạ giờ là một không gian tràn ngập ánh sáng của trăng. Và thuyền trở thành thuyền trăng, sông trở thành sông trăng và bến là bến trăng.

Bến trăng, thuyền trăng đã nhiều lần xuất hiện trong thơ ca, nhưng sông trăng là một hình ảnh mới. Vì thế, câu thơ như đưa người đọc vào cõi mộng. Và "Bạn có thể mang mặt trăng trở lại thời gian cho đêm nay?" là câu hỏi mong đợi, hồi hộp, lo lắng và nghi hoặc, khẩn thiết; Đó cũng chính là câu hỏi mà nhà thơ tự hỏi mình. Nhà văn ý thức được rằng, nếu đêm nay trăng không “về kịp” thì tôi sẽ mãi mãi chìm trong đau đớn, tuyệt vọng.

Qua hai khổ thơ đầu của bài Đây thôn Vĩ Dạ có thể thấy thành công của hai khổ thơ là nhờ các biện pháp tu từ như ám chỉ, nghi vấn, so sánh bằng liên tưởng. Bằng những nét vẽ nghệ thuật, Hàn Mặc Tử đã khắc họa nên một khung cảnh thơ mộng, tràn đầy sức sống nhưng cũng mang nỗi buồn, nỗi lòng của một thi nhân chịu nhiều bất hạnh.

Phân tích 2 khổ thơ đầu của bài Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu 5

Hẳn mỗi người Việt Nam đều đã biết đến bài vọng trăng nổi tiếng của nhà thơ trữ tình lãng mạn Hàn Mặc Tử vào những năm 30 của thế kỷ 19 và lời rao trăng ấy đã in sâu trong lòng người đọc. Anh là một thiên tài như những vì sao sáng trên bầu trời thơ mới, nhưng cuộc đời anh cũng đầy bất hạnh, anh luôn quằn quại đau đớn bên chiếc giường trong trại phong nơi có sự đấu tranh, giằng xé. giữa linh hồn và xác thịt của mình với một căn bệnh quái dị. Và chính nơi đây, ông đã tạo ra cho mình một thế giới nghệ thuật điên rồ, ma quái. Chính cái “chất điên” ấy đã làm nên phong cách nghệ thuật độc đáo, riêng biệt và mới mẻ của Hàn Mặc Tử.

Thơ ông tưởng chừng như ứa máu và nước mắt, nhưng bên trong những dòng thơ ấy vẫn có những dòng thơ trong trẻo, dung dị đến lạ lùng. Đây thôn Vĩ Dạ trích trong tập thơ điên điển là một tác phẩm như thế. Đây là sản phẩm của nguồn thơ lạ lùng ấy, là lời thú nhận với cuộc đời của một mối tình đơn phương tuyệt vọng, nhưng ẩn dưới mỗi nét sáng là một khối u của tác giả. Đoạn thơ còn là tình yêu thiên nhiên, yêu người tha thiết của Vĩ Dạ - nơi chứa đựng biết bao kỉ niệm và luôn sống mãi trong hồi ức của ông. Vì vậy, đọc bài thơ này ta thấy được một khía cạnh rất đẹp trong tâm hồn nhà thơ.

Xứ Huế mộng mơ đã từng là nguồn cảm hứng cho biết bao nhà văn, nhà thơ. Có lẽ hay nhất là tập thơ điên với cái điên ấy của Hàn Mặc Tử, được ông mở đầu bằng câu hỏi:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Ngay trong câu hỏi ấy đã chứa đựng nhiều sắc thái biểu cảm như hỏi thăm, nhắc nhở, trách móc, vừa như một lời giới thiệu, vừa mời gọi mọi người. Câu thơ bảy chữ nhưng có sáu thanh điệu khiến giọng điệu nhẹ nhàng, tình cảm, chính sự ngọt ngào làm dịu đi lời trách móc. Nhưng ở đây không phải lỗi của hoàng cúc mà là của chủ thể trữ tình Hàn Mặc Tử, từ tình yêu Huế sâu nặng của Hàn Mặc Tử trong tâm trạng tuyệt vọng nhưng khao khát của Hàn Mặc Tử, anh đã vẽ nên khung cảnh. Thôn Vĩ đẹp như trong truyện cổ tích ở ba câu tiếp theo:

“Nắng hàng cau mới ngước mặt lên
Vườn ai xanh như ngọc
Lá tre che ngang hoàn chỉnh kiểu chữ"

Thôn Vĩ hiện lên trong thơ Hàn Mặc Tử thật bình dị mà đẹp biết bao! Bằng tình yêu thiên nhiên của mình, tác giả đã mở ra trước mắt chúng ta một bức tranh thiên nhiên kì vĩ, đẹp một cách lộng lẫy. Thôn Vĩ nói riêng và xứ Huế nói chung đặc trưng bởi ánh bình minh và khu vườn thân quen. Đó là một đường thẳng cao nằm dưới ánh mặt trời. Hàng cau như đón người thân sau bao ngày xa cách. Hàng cau cao vút là hình ảnh quen thuộc của thôn Vĩ Dạ từ bao đời nay. Quên màu xanh ở đây đi. Nhà thơ đã thốt lên đầy ngưỡng mộ khi đứng trước một màu xanh mướt của thôn Vĩ Dạ: “vườn ai xanh như ngọc bích”. Ở đây, nó cho ta thấy một sự vươn lên mạnh mẽ, sung mãn, căng tràn sức sống và cho ta thấy sự trẻ trung, yêu đời. Trong không gian tươi trẻ ấy, một khuôn mặt đầy chữ nghĩa và nhân hậu hiện ra. Với những chiếc lá trúc che đi khuôn mặt nhân hậu đã làm nổi bật vẻ đẹp của một cô gái Huế duyên dáng, dịu dàng, kín đáo, đằm thắm.

Bài thơ đẹp bởi sự hài hòa giữa cảnh vật và con người. Tâm trạng của nhân vật trong đoạn thơ này là niềm hân hoan, hân hoan, say mê như lạc vào cõi thần tiên, cõi mộng khi được trở lại với cảnh và người thôn Vĩ.

Cũng cùng một không gian là Đây thôn Vĩ Dạ nhưng thời gian chuyển từ sáng sang chiều và nhà thơ đã phác ra một không gian bao la, rộng lớn có đủ gió, mây, sông, nước, trăng, hoa. . Với không gian rộng lớn ấy, nhà thơ đã miêu tả hai thực thể luôn gắn bó trong trạng thái không thể chia lìa:

“Gió theo gió, theo mây theo mây”.

Điều này là sai trái, không thực tế và vô lý. Qua đó cho thấy nhà thơ tạo ra hình ảnh này không phải bằng thị giác mà bằng cái nhìn áy náy. Đó là mặc cảm của một người gắn bó sâu sắc với cuộc sống nhưng lại có nguy cơ phải xa cách với thế giới nên nhìn đâu cũng thấy sự chia ly.

Vốn dĩ nhà thơ đang vui khi một sớm mai trở lại Đây thôn Vĩ Dạ bỗng trở nên buồn man mác. Có lẽ nỗi buồn ấy là do mối tình đơn phương và những kỷ niệm đẹp với cảnh và người xứ Huế mộng mơ. Quả thật, người buồn có bao giờ vui. Huế vốn thơ mộng và yên bình - các nhà thơ làm cho nó vô tình và lạ lùng.

“Nước buồn bông ngô rụng
Thuyền ai cập bến sông trăng
Cõng trăng đêm nay”

Dòng Hương Giang đẹp và thơ mộng đã đi vào thơ ca Việt Nam bao đời nay mà nay buồn, lòng sông buồn, đôi bờ buồn, những bông ngô đồng không màu khẽ bay trong gió. Cảnh buồn chỉ đến đó, còn trăng mọc rồi lặn là một con người hoàn toàn mới. Với tính cách lãng mạn, nhà thơ đã tạo nên một không gian tràn ngập ánh trăng, dòng sông trăng, bến trăng, con thuyền chở trăng, tất cả đều lung linh, huyền ảo… vầng trăng đã đi vào tâm thức của tôi. Người Việt đã có từ lâu đời, nhưng trăng ở đây khác với trăng của các thế hệ trước và đương thời. Không có thuyền nào chở được trăng nhưng ở đây nhà thơ lại thấy thuyền quay trăng. Điều đó khiến mọi thứ nơi đây trở nên huyền ảo, đầy lãng mạn. Tuy nhiên, đối diện với trăng, nhà thơ vẫn có một tâm trạng bất an.

Chỉ với hai khổ thơ đầu, Hàn Mặc Tử dường như đã cho ta thấy hết về người và cảnh thôn Vĩ Dạ, qua đó hiểu sâu sắc hơn tâm trạng nặng trĩu của nhân vật trữ tình. Thấy được một tâm hồn nhạy cảm với đời, với tình, với cuộc đời của tác giả.

Phân tích 2 khổ thơ đầu của bài Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu 6

Trong số các nhà thơ của phong trào thơ mới 1932 – 1945, có lẽ chúng ta không thấy ai có số phận nghiệt ngã như Hàn Mặc Tử, số phận cay đắng của nhà thơ được dự đoán qua ý nghĩa của biệt danh Phong Trần. (Gió bụi), Lệ Thanh (tiếng khóc). Hàn Mặc Tử đi trong giá lạnh với trái tim xao xuyến, anh đã trải lòng mình trên trang giấy mỏng manh và cho ra nhiều bài thơ độc đáo. Một trong số đó là bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ, khi đọc bài thơ, độc giả sẽ ấn tượng với hai khổ thơ đầu:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
…………
Cõng trăng đêm nay”

Hàn Mặc Tử là một trong ba đỉnh cao của phong trào thơ mới, anh là một hiện tượng thơ rất mới lạ. Hồn thơ mãnh liệt luôn chất chứa sự mâu thuẫn giữa cảnh vật và tinh thần bởi nỗi đau bệnh tật nên ông luôn khao khát sống, khao khát đồng cảm với cuộc đời và con người. Bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" được sáng tác năm 1938, lấy cảm hứng từ mối tình đơn phương của Hàn Mặc Tử với một cô gái Huế, bài thơ được in trong tập "Thơ Điên" và sau đổi thành "Nỗi Đau".

Như chúng ta đã biết thơ là cuộc sống, nhưng không phải là sự sao chép một cách máy móc mà phải được chắt lọc, cảm nhận qua tâm hồn thi nhân thì mới trở thành thơ. Thơ là những hình ảnh tươi nguyên, được tái hiện qua lăng kính cảm xúc của người nghệ sĩ. Bởi vậy, nếu thơ không có tư tưởng, không có cảm xúc thì chỉ là những lời sáo rỗng nhạt nhẽo vô vị, chỉ chọn làm xiếc, ngôn từ không lừa được người đọc. Là một nhà thơ, Hàn Mặc Tử không ngừng sáng tạo ra những tác phẩm độc đáo, khác biệt với các nhà thơ cùng thời. Đọc Đây thôn Vĩ Dạ cho ta cảm nhận rõ hơn điều đó, mở đầu bài thơ là một câu hỏi tu từ:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Câu hỏi ấy chính là sự phân thân của nhà thơ, nhà thơ hóa thân thành cô gái Huế để hờn dỗi, trách móc nhẹ nhàng nhưng đằng sau đó là một lời mời rất chân thành, nhà thơ dùng từ “chơi” gợi sự gần gũi thân thiết. Mặt khác, câu hỏi tu từ này là nhà thơ đang tự hỏi mình, tự trách mình rằng, sao xứ Huế cảnh đẹp thế này mà mình không đến chơi. Đó là một câu hỏi lớn, nhức nhối, nay trở lại Huế đã trở thành niềm khát khao của nhà thơ. Có lẽ khi sáng tác bài thơ này, nhà thơ đang ở giai đoạn cuối của bệnh phong nên trong tâm trí ông chỉ có thể trở về chơi thôn Vĩ, nhưng dù trong tâm trí ông, cảnh thiên nhiên thôn Vĩ vẫn đẹp lung linh. :

“Nắng hàng cau mới ngước mặt lên
Vườn ai xanh như ngọc
Lá tre che ngang hoàn chỉnh kiểu chữ"

Bức tranh thôn Vĩ đẹp và thơ mộng có thể được chiêm ngưỡng từ xa. Câu thơ có điệp ngữ “nắng” gợi lên trong mắt người đọc một không gian tràn ngập ánh sáng, đó là loài cây mang vẻ đẹp đặc trưng của thôn Vĩ, với thân thẳng tắp, tán lá xanh mướt, miệt vườn. Thôn Vĩ xanh mướt đến nỗi khách phương xa phải trầm trồ “vườn nhà ai xanh như ngọc” không rõ vườn của ai nhưng người đọc vẫn có thể hiểu đó là khu vườn của một cô gái Huế. “mượt” là đặc tả về màu xanh của lá. Tại sao tác giả không dùng màu lam, xanh thẫm mà lại dùng màu xanh ngọc bích, có lẽ đó là màu xanh tinh khiết, tinh túy, quyến rũ và bức tranh thôn Vĩ ngày càng đẹp, hiện lên thật hoàn hảo. hơn, khi có sự xuất hiện của cô gái “lá tre che mặt chữ điền”. Vĩ Dạ nổi tiếng với màu xanh của tre, của hàng cây trồng trước ngõ. Trong tâm trí nhà thơ chợt hiện lên qua từ điền sau hàng tre. Lá trúc mảnh mai, mặt chữ điền gợi lên sự vuông vắn, đôn hậu.

Tất cả tạo nên vẻ đẹp hài hòa giữa con người và thiên nhiên, nếu như ở khổ thơ đầu nhà thơ nhìn cảnh vật với niềm lạc quan yêu đời thì khổ thơ thứ hai có sự thay đổi đó là nỗi niềm day dứt về cảnh chia tay, chia lìa:

“Gió theo gió, theo mây theo mây
Nước buồn hoa ngô nằm.”

Hai câu thơ gợi tả vẻ đẹp đặc trưng của xứ Huế, đó là dòng sông Hương chầm chậm chảy hai bên bờ, những vườn ngô, khóm hoa nhẹ nhàng đung đưa, trên cao là gió bay theo mây trời. đường mây. Thực ra ta thấy Gió và Mây là hai thứ không thể tách rời nhau, vì khi gió thổi thì mây trời mới bay được. Thế nhưng, hai chữ chia tay vẫn đến, thủy chung vẫn như mang một tâm trạng khó tả.

Cho đến hai câu thơ tiếp theo, vẫn là sông Hương, là xứ Huế mộng mơ nhưng không còn nắng, không còn màu xanh của Vĩ Dạ mà trước mắt người đọc là không gian tràn ngập ánh trăng, con thuyền trở thành con thuyền. Trăng, sông thành sông trăng, bến thành bến trăng

“Thuyền ai cập bến sông trăng
Cõng trăng đêm nay”

Từ xưa đến nay ta thường bắt gặp hình ảnh con thuyền trăng, bến nước, nhưng nay ta lại bắt gặp một hình ảnh mới đó là dòng sông trăng, đọc bài thơ người đọc sẽ có cảm giác như bước vào cõi mộng, như thể thơ đang sống trong lo lắng, chờ đợi. Ở khổ thơ đầu câu hỏi tu từ xuất hiện ở câu đầu, ở khổ thơ thứ hai câu hỏi tu từ xuất hiện ở câu thơ cuối. Câu thơ như chở bao cảm xúc “Có gánh trăng về” là sự mong chờ hi vọng “còn kịp đêm nay” là sự băn khoăn, lo lắng, hoài nghi, là yêu cầu khẩn thiết. Nhưng hình như nhà thơ đã báo trước sự thất vọng, nhà thơ dường như ý thức được rằng nếu trăng không về kịp thì sẽ mãi mãi rơi vào thế giới đau thương, tuyệt vọng.

Thành công của đoạn văn là nhờ sử dụng các biện pháp tu từ như điệp ngữ, câu hỏi tu từ, so sánh bằng biện pháp nghệ thuật liên tưởng, cùng với câu hỏi tu từ xuyên suốt đoạn văn. Nhà thơ đã miêu tả trước mắt chúng ta một khung cảnh thơ mộng, tràn đầy sức sống và trong đó là cả tấm lòng của chính nhà thơ.

Tóm lại, Đây Thôn Vĩ Dạ là một bức tranh đẹp về cảnh và người của vùng quê, đất nước qua tâm hồn giàu trí tưởng tượng, yêu đời của nhà thơ đa cảm, đa cảm. Và Hàn Mặc Tử đã thực sự thành công khi thể hiện sự thay đổi tâm trạng của nhân vật trữ tình - người mang nặng tâm trạng.

Phân tích hai khổ thơ đầu của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu 7

Nhắc đến phong trào thơ Mới không thể không nhắc đến Hàn Mặc Tử - thi sĩ điên đảo của văn học Việt Nam. Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một kiệt tác tiêu biểu của ông. Hai khổ thơ đầu của bài thơ như một khúc ngâm trữ tình đẹp đẽ, giàu sức gợi:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Hàng cau nắng mới ngước mặt lên

Thuyền ai cập bến sông trăng
Cõng trăng đêm nay”

Vĩ Dạ - chốn bồng lai tiên cảnh trong lòng xứ Huế mộng mơ. Câu hỏi tu từ tha thiết, vừa là lời trách móc, vừa là lời mời gọi: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ” nghe thật chân thành, nhẹ nhàng. Giọng thơ trầm lắng, nhẹ nhàng khó tả qua cách kết hợp vần bằng trong các câu tinh tế. Câu thơ như một lời gợi mở trước vẻ đẹp của thiên nhiên và con người nơi đây:

“Nắng hàng cau mới ngước mặt lên
Vườn ai xanh như ngọc
Lá tre che ngang hoàn chỉnh kiểu chữ"

Những hàng cau thẳng tắp vươn mình đón nắng, gió thoảng mây “nắng mới lên” mang một cái gì đó trong sáng, thuần khiết và đẹp đẽ. Vẻ đẹp của ánh nắng vàng tươi, không gay gắt như trưa hè, không buồn như hoàng hôn, mà là ánh nắng trong veo vô tận của buổi sớm mai. Những hàng cau xanh mướt dưới nắng vàng dịu dàng hiện lên thật đẹp. Trong không gian ấy còn có cả một khu vườn “thật mát mắt, xanh như ngọc bích”. Bằng những tính từ gợi cảm, chỉ những màu sắc đặc sắc, tác giả đã tái hiện khung cảnh khu vườn đầy tơ non, mang sức sống mới, tươi tốt và tràn đầy hi vọng. Vài giọt sương đọng trên lá càng thêm lung linh, những cành non mơn mởn trong màu xanh của lá căng tràn nhựa sống, trong sáng và thanh khiết. “Lá tre che mặt chữ điền” – Gương mặt thiếu nữ thấp thoáng trong không gian tuyệt vời. Khuôn mặt ấy thật đẹp sau rặng tre xanh dịu. Tất cả tạo nên một vẻ đẹp ấn tượng và độc đáo, vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng, thanh lịch và nhã nhặn của người con gái Huế hiện lên một cách duyên dáng và ý nhị. Cảnh và người như hòa quyện, mang tâm hồn người bâng khuâng, rạo rực trước vẻ đẹp của thiên nhiên.

Nếu khổ thơ đầu là cảnh lúc bình minh thì khổ thơ thứ hai là hình ảnh thôn Vĩ trong cảnh chiều tối.

“Gió theo gió, mây theo mây
Dòng nước chảy quanh bông ngô
Thuyền ai cập bến sông trăng
Cõng trăng đêm nay”

Dường như thiên nhiên đang nhuốm màu buồn của sự chia ly, mây và gió vốn thường song hành, nay trở về đôi ngả “gió theo gió, mây theo mây”, mây và gió lang thang vô định giữa khoảng không. bầu trời, cảm giác như những vì sao. Thật cô đơn và buồn bã. Dòng nước cũng được nhân hóa với cảm giác “buồn bã” bồng bềnh, bông ngô đồng nhẹ “đong đưa” trong gió cũng có phần yếu ớt, phảng phất chút hoài niệm. Cảnh vật mang theo tiếng lòng của tâm hồn con người, dường như đâu đó ta còn nghe thấy tiếng lòng thi nhân cô đơn trước nỗi nhớ mong, bùi ngùi trước cảnh chia tay buồn. Để nguôi ngoai nỗi lòng, nhà thơ nhìn ra dòng sông Hương huyền ảo, dòng sông được ánh trăng mờ soi rọi, con thuyền nằm thong dong bên bờ sông Thương. Bến trăng, sông trăng, thuyền trăng, mây núi, bầu trời tràn ngập ánh trăng, chứa đựng một điều gì đó khó hiểu. Trăng đẹp nhưng trăng cũng buồn, bóng tối lặng lẽ, yên bình trên bầu trời đêm. “Có đưa trăng về kịp đêm nay” - câu thơ như một lời tâm sự, một câu hỏi nhưng cũng là một sự chờ đợi, mong đưa trăng về đúng lúc như một thi sĩ đang đợi người yêu đến để vơi đi nỗi sầu. Cô đơn quá, bởi trăng như người bạn tâm tình của nhà thơ.

Bằng những hình ảnh thơ độc đáo, quen thuộc và giản dị, nhưng qua tài năng trong ngòi bút của mình, Hàn Mặc Tử đã biến cái quen thuộc thành nét mới lạ, hấp dẫn. Khung cảnh mang theo cảm xúc, dư vị hoài cổ của nhà thơ với cái nhìn tinh tế, sâu sắc, chỉ qua hai khổ thơ ta thấy được tình yêu tha thiết của nhà thơ đối với cuộc sống và thiên nhiên.

Phân tích hai khổ thơ đầu của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu 8

Hàn Mặc Tử là một nhà thơ có tâm hồn nhạy cảm, những sáng tác của ông được sáng tác đi vào lòng người một cách tự nhiên và sâu lắng, để lại nhiều suy ngẫm cho người đọc. Một trong những bài thơ đó là bài “Đây thôn Vĩ Dạ”, một bài thơ nói đến vùng quê xứ Huế thơ mộng, mang vẻ đẹp vừa giản dị vừa đáng yêu như chính cô gái mà tác giả đang thầm yêu. cô. Không chỉ vậy, bài thơ còn thể hiện niềm khao khát, tình yêu quê và sự gắn bó thiết tha của nhà thơ với người thân.

Khác với những bài thơ khác, mở đầu bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” không phải là một câu miêu tả hay một câu cảm thán mà là một câu hỏi tu từ: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ”. Cảm hứng của bài thơ bắt nguồn từ bức thư của Hoàng Thị Kim Cúc viết cho Hàn Mặc Tử, câu chữ khiến cảm xúc tác giả ùa về, gợi hoài niệm về một miền thơ mộng hữu tình.

Dòng đầu của bài thơ, mở ra một câu hỏi lạ, mở ra một câu hỏi không ai trả lời khiến cho mạch cảm xúc của bài thơ trở nên bâng khuâng khôn tả. Dù không ở gần, không một lần về thăm Vĩ Dạ nhưng với nỗi nhớ đã đưa Hàn Mặc Tử trở về cố hương. Câu hỏi tu từ như một lời trách móc, hờn dỗi của người con gái như muốn nói rằng, sao lâu rồi tác giả chưa về thăm quê một lần. Câu hỏi được đặt ra không phải để trả lời mà gợi lên một cảm giác bâng khuâng, khó tả. Nó như một lời mời, vừa như một lời giới thiệu nhưng cũng như một sự tiếc nuối của chính tác giả đã lâu không về thăm thôn Vĩ. “Sao anh không về chơi thôn Vĩ” như một lời tự trách, tự trách mình.

Khung cảnh Vĩ Dạ dần hiện ra với bao cảnh sắc, vừa có nắng vừa có sắc màu rực rỡ, có hình ảnh cành trúc đung đưa trước ngõ nhà ai. Cái tài độc đáo của tác giả là khơi gợi những tưởng tượng mới cho chính người đọc

Không trực tiếp ở Vĩ Dạ, nhưng với nỗi nhớ Vĩ Dạ tha thiết, tác giả có thể hình dung ra cảnh mình đặt chân đến quê hương thân yêu. Mỗi câu thơ như trích dẫn một vẻ đẹp của nơi đây, không những thế, những từ ngữ dùng để miêu tả cảnh không chỉ đẹp mà còn gợi hình. Mọi thứ dường như hài hòa và phản chiếu một vẻ đẹp tinh tế, thuần khiết. Hình ảnh cây cau gợi vẻ đẹp thanh tao, cao vút vươn mình lên đón ánh nắng ban mai. Lọt vào đó là những tia nắng bình minh vừa rực rỡ vừa dịu dàng, như đang rải một cái nhìn thân thiện, mời gọi cho Vĩ Dạ. Nắng ở đây càng trở nên đẹp và lạ hơn khi được tác giả khoác lên nó bằng những từ ngữ “nắng mới tinh khôi mà cũng thật trong trẻo, không một gợn của một ngày dài đã qua.

Tác giả như dẫn dắt người đọc đi sâu hơn vào cảnh sắc thôn Vĩ, và bằng biện pháp so sánh, những mảnh vườn nơi đây đã trở thành những thứ mà dưới con mắt của một người nghệ sĩ được biến thành những chốn sơn thủy hữu tình: “Vườn ai xanh như ngọc bích”. “. Dường như cây cối thôn Vĩ quanh năm đều được tưới mát, từ “mướt” dùng ở đây quả thật không quá lời, xanh tươi, mơn mởn và tràn đầy sức sống. Nhịp thơ uyển chuyển kết hợp với những từ ngữ có tính tượng hình cao, khung cảnh nơi đây dường như đẹp huyền bí hơn, vừa có màu của mặt trời mọc, vừa có màu xanh của những khu vườn, vạn vật đều tươi tốt. mới, tràn đầy sức sống. Câu cuối khổ thơ 1 gợi nhiều suy nghĩ, liên tưởng nhất: “Lá tre che mặt phông”. Đó có phải là hình ảnh những chiếc lá tre sà xuống trên những khu vườn vuông vức xinh đẹp của xứ Huế, hay những cành trúc rủ xuống trước cửa những ngôi nhà xứ Huế. Đâu đó gợi sự e ấp e ấp của cô gái Huế với khuôn mặt phúc hậu, gợi vẻ đẹp duyên dáng mà kín đáo.

Những câu thơ sau cho tôi thấy một nét khác của xứ Huế, một sự thay đổi tâm trạng của nhân vật trữ tình:

“Gió theo gió, theo mây theo mây
Nước buồn, bông ngô đung đưa”

“Thuyền ai cập bến sông trăng
Cõng trăng đêm nay”

Những câu thơ cho ta thấy tâm trạng nặng trĩu của Hàn Mặc Tử, hai câu thơ đầu gợi lên cảnh chia ly, buồn man mác. Các từ “gió”, “mây” cùng với nhịp điệu của câu thơ càng làm cho cảnh chia ly thêm rõ nét. Gió mây thường là một cặp, thường quấn quýt với nhau nhưng ở đây “gió theo gió, mây theo mây”. Hoa rơi xuống nước là điều hiển nhiên, nhưng lại chất chứa một nỗi buồn đến nao lòng, nỗi chia li chia li ngày càng hiện hữu. Nhìn cảnh hoa trôi theo gió ta thấy được tâm trạng của nhà thơ. Lòng buồn rười rượi, không một chút cảm xúc nào chứa đựng. Hình ảnh vầng trăng không chỉ xuất hiện trong bài thơ này mà còn xuất hiện trong rất nhiều bài thơ nổi tiếng của các nhà thơ khác. Ánh trăng là biểu tượng của cái đẹp, tượng trưng cho hạnh phúc, bình yên. Đối với Hàn Mặc Tử, hình ảnh vầng trăng trong thơ gợi lên một niềm hi vọng, một niềm tin. Chỉ trong thơ mới có sông trăng, thuyền trăng. Nghệ thuật ẩn dụ của tác giả ở đây đậm chất thơ, mang đến cho ta niềm khao khát, chờ đợi. Nhưng nó lại mang đến một dự đoán, hay một sự ngờ vực rằng “Đêm nay sẽ đưa trăng về đúng lúc”. Lời thơ như một câu hỏi không lời giải đáp. Hai câu thơ diễn tả tâm trạng mong mỏi gặp gỡ nhưng đồng thời cũng bộc lộ nỗi lo lắng không nguôi.

Tuy ra đời đã lâu nhưng bài thơ đã chiếm được nhiều cảm xúc của người đọc bấy giờ và người đọc ngày nay. Nó không chỉ gợi vẻ đẹp thiên nhiên tươi đẹp mà còn là những cảm xúc sâu lắng, với niềm khát khao yêu đời, yêu người. Bài thơ là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ Hàn Mặc Tử, một tâm hồn nhạy cảm trước cuộc đời, yêu đời.

Phân tích 2 khổ thơ đầu của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu 9

Ai mua trăng em bán ạ
Trăng nằm yên trên cành liễu chờ đợi
Ai mua trăng em bán ạ
Đừng bán tình yêu và lời thề

Ai đã từng sinh ra và lớn lên trên cõi đời này mà không biết đến “lời trăng trối” nổi tiếng ấy của một nhà thơ rất nổi tiếng vào những năm ba mươi của thế kỷ XIX, vâng đó chính là Hàn Mặc Tử - một cái tên mãi in sâu trong lòng người đọc. Ông là “một hồn thơ mạnh mẽ nhưng luôn quằn quại, đau đớn, dường như có một sự đấu tranh, giằng xé quyết liệt giữa tâm hồn và xác thịt”. Ông đã “tạo ra cho thơ mình một thế giới nghệ thuật điên rồ, ma quái và xa lạ với đời thực”. Đoạn thơ còn là tình yêu thiên nhiên, yêu người tha thiết của Vĩ Dạ - nơi chứa đựng biết bao kỉ niệm và luôn sống mãi trong hồi ức của ông. Vì vậy, đọc bài thơ này ta thấy được một khía cạnh rất đẹp trong tâm hồn nhà thơ.

Bằng lời trách móc nhẹ nhàng, ngọt ngào như một lời mời gọi, Hàn Mặc Tử đã trở lại Đây thôn Vĩ Dạ trong giấc mơ:

Sao em không về chơi thôn Vĩ?
Hàng cau nắng mới ngước mặt lên
Vườn ai xanh như ngọc
Bìa lá trúc ngang hoàn chỉnh kiểu chữ

Cảnh thôn Vĩ Dạ với những vườn hoa trái xum xuê hiện lên thật nên thơ và trong lành. Đó là hàng cau thẳng tắp tắm mình trong “bình minh” tươi mát. Chưa hết, xa xa là hình ảnh “mặt trời chói chang và mặt trời vừa mọc” và rất gần là “vườn ai quá xanh như ngọc bích”. “So cool” gợi hình ảnh một cây nhung non tràn đầy sức sống xanh tươi. Thiên nhiên và con người hài hòa. Tạo tâm trạng xót xa, tiếc nuối cho tác giả.

Khổ thơ thứ hai đột ngột thay đổi sắc thái của cảnh vật:

Gió theo gió, theo mây, theo mây

Cũng trong không gian ấy là Đây thôn Vĩ Dạ nhưng thời gian đã chuyển từ “bình minh” sang chiều tà. Tâm trạng của nhân vật trữ tình cũng có sự thay đổi lớn. Trong con mắt nhà thơ, bầu trời hiện ra “Gió theo gió, mây theo mây” trong cảnh chia ly, ai oán. Biện pháp nhân cách hóa cho ta thấy điều đó. “Gió cuốn theo chiều gió” theo không gian riêng của nó và mây cũng vậy. Câu thơ tách thành hai vế đối nhau; mở đầu là hình ảnh “gió”, khép lại cũng là gió; Đầu câu thứ hai là “mây”, kết thúc cũng là “mây”. Trong cơn mơ Hàn Mặc Tử về với thôn Vĩ mà lòng man mác buồn, có lẽ vì mối tình đơn phương và những kỉ niệm đẹp với cảnh và người con gái xứ Huế mộng mơ mà làm nên tâm trạng ấy. Trời buồn, đất vui hơn khi:

Nước buồn hoa ngô nằm.
Thuyền ai cập bến sông trăng

Dòng sông Hương “buồn” trong buổi chiều dưới ánh trăng đã trở thành “dòng sông trăng” thơ mộng. Ghe đậu xào trên sông là “thuyền ai cập bến”, là một bức tranh thêm trữ tình, lãng mạn. Hình ảnh “con thuyền” và “sông trăng” thật đẹp và hài hòa.

Cõng trăng đêm nay?

Câu hỏi tu từ vang lên như sự mong mỏi, đợi chờ, mong gặp mặt “vầng trăng” sáng ngời của người thôn Vĩ trong lòng nhà thơ. Thế mới biết tấm lòng của nhà thơ đối với người em gái xứ Huế tha thiết đến nhường nào. Tác giả rất cô đơn cần người tâm sự, chỉ có ánh trăng mới hiểu được lòng thi nhân. Hàn Mặc Tử rất yêu Huế, dường như Huế và cảnh Huế không đáp lại tình yêu của tác giả, nó thật xa vắng, trống trải và xa vắng.

Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo sơ mi của tôi quá trắng để nhìn thấy
Sương mù ở đây
Bất cứ ai biết in đậm?

Vẫn là tâm trạng hân hoan đón “lữ khách phương xa” - người thôn Vĩ đến với mình, tâm trạng nhân vật trữ tình khép lại trong nỗi đau xót, hoài nghi “Tình ai biết đậm đà?”. “Ai” ở đây vừa chỉ người dân thôn Vĩ, vừa chỉ chính tác giả. Không biết người thôn Vĩ có còn thương mình không? Và không biết em có còn hứng thú với “áo anh trắng quá” hay không? Nỗi đau trong tình yêu là sự giễu cợt, mất lòng tin vào nhau. Nhân vật trữ tình đã rơi vào hoàn cảnh đó và thổ lộ nỗi lòng của mình để mọi người hiểu và thông cảm. Cái mới của thơ lãng mạn giai đoạn 1932-1945 cũng là ở đó.

Đây thôn Vĩ Dạ là một bức tranh đẹp về cảnh và người của một vùng quê sông nước qua tâm hồn thơ mộng, giàu trí tưởng tượng và yêu đời của một nhà thơ đa cảm. độc giả. “Tình trong mộng của kẻ đau thương ấy có sức bay lạ lùng” nhưng cũng bình dị, trong sáng và đẹp như Đây thôn Vĩ Dạ. Đây là một nghệ sĩ tài hoa, một trái tim luôn thổn thức yêu thương, một tâm hồn thơ đã biến những đau thương, bất hạnh của cuộc đời thành những đoá hoa thơ mộng, trong đó thơm nhất, thanh khiết nhất chính là Đây thôn Vĩ Dạ.

Phân tích 2 khổ thơ đầu của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu 10

Hàn Mặc Tử là nhà thơ có số phận đau thương nhưng là một trong những nhà thơ có nhiều sáng tạo trong phong trào Thơ mới. Ông đã để lại cho làng thơ Việt Nam nhiều tác phẩm có giá trị như “Gái quê”, “Thơ điên”,... Độc đáo và xúc động nhất là bài “Đây thôn Vĩ Dạ”. Đoạn thơ là một bức tranh quê sông nước tươi đẹp và là tiếng nói của một con người tha thiết yêu cuộc sống và con người. Tất cả những vẻ đẹp đó của bài thơ đã được ngòi bút Hàn Mặc Tử khắc họa một cách tinh tế và sâu sắc qua hai khổ thơ đầu:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Cõng trăng đêm nay”

Theo nhà thơ Quách Tấn - bạn thơ của Hàn Mặc Tử, bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được khơi nguồn từ một tấm bưu ảnh do một cô gái Huế tên là Hoàng Cúc gửi đến. Đó là một tấm bưu ảnh tả cảnh xứ Huế có dòng sông, có con thuyền, bến ngắm trăng hay cảnh bình minh. Lúc đó Hàn Mặc Tử đang điều trị bệnh phong ở Quy Nhơn. Nhận được tấm bưu ảnh và lời chúc của cô gái Huế, anh xúc động viết bài thơ này. “Đây thôn Vĩ Dạ” sau được in trong tập thơ “Nỗi đau”.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”.

Câu hỏi ấy chính là sự hóa thân của nhà thơ, sự hóa thân của nhà thơ vào cô gái Huế. Chỉ một câu nói, một câu hỏi nhưng chứa đầy yêu thương. Sao lâu rồi anh không về với thôn Vĩ bên dòng sông Hương thơ mộng, với người con gái anh yêu? Mặt khác, sắc thái tu từ ở câu thơ đầu còn là câu hỏi, lời tự trách: “sao em không về”? Huế đẹp sao em không về? Đó là một câu hỏi đau đớn và day dứt bởi việc trở lại Huế là điều không thể bởi nhà thơ đang ở giai đoạn cuối của bệnh tật. Nhưng cũng chính câu hỏi tu từ ấy lại là nguyên nhân khơi dậy những niềm mong nhớ, hoài niệm. Vì không về được nên nhà thơ đã hành hương trong tâm tưởng. Thôn Vĩ vì thế hiện lên lung linh trong nỗi nhớ.

“Hàng cau nắng mới ngẩng mặt lên”

Từ “nắng” được lặp lại hai lần gợi nên một bức tranh thơ mộng hữu tình của cảnh vườn ở xứ Huế. Nhớ về thôn Vĩ, nhà thơ nhớ ngay đến hình ảnh đầu tiên là cây cau - “hàng cau đầy nắng”. Vì cây cau là hình ảnh quen thuộc với mỗi thôn Vĩ. Cau là cây cao nên đón ánh nắng đầu tiên của một ngày mới. Không gian thôn Vĩ vì thế được đẩy lên cao, thoáng đãng và rộng rãi. Đặc biệt sau một đêm tắm mình dưới làn sương, những trái cau càng xanh hơn dưới nắng. Cụm từ “bình minh” cho ta cảm nhận đẹp đẽ về ánh nắng ban mai rực rỡ, trong trẻo. Câu thơ vẽ một hàng cau căng tràn sức sống vươn lên mạnh mẽ đón ánh nắng đầu tiên của buổi sớm mai. Ánh nắng trong lành, tinh khiết làm bừng sáng cả không gian khoáng đạt, rộng rãi.

“Vườn ai xanh mượt như ngọc”

“Câu thơ hay là câu thơ giàu sức gợi” (Lưu Trọng Lư). Quả thật, câu thơ gợi lên một không gian xanh mướt của thiên nhiên Vĩ Dạ, màu xanh mượt mà, bóng mỡ của cây cối khiến người đọc cảm nhận được một sức sống căng tràn, dịu dàng. Tác giả sử dụng phép so sánh “xanh như ngọc” để miêu tả sức sống và vẻ đẹp của thiên nhiên thôn Vĩ, một màu cao quý, lấp lánh và trong trẻo. Nếu không có một tình yêu tha thiết với đất và người Vĩ Dạ, có lẽ Hàn thi sĩ đã không gieo được những vần thơ trong trẻo như vậy. Bài viết của thầy Phan Danh Hiếu

“Vườn của ai”? không xác định nhưng mặc nhiên đó là khu vườn của các cô gái Huế. “Smooth” là một tính từ khác với “smooth” vì “smooth” chỉ gợi lên sự mượt mà, còn “mượt” gợi lên sự tươi sáng, tươi tắn của cảnh vật. Bốn chữ “vườn ai mướt quá” như một lời cảm phục, thán phục, khen ngợi cũng như một lời cảm ơn thầm lặng đến chủ vườn đã chăm sóc cho khu vườn thêm đẹp.

“Lá trúc che ngang hoàn toàn mặt chữ”.

Phải chăng trong tâm trí nhà thơ bỗng hiện lên khuôn mặt chữ điền thấp thoáng sau hàng tre. Đoạn thơ có sự hài hòa giữa hai hình ảnh thiên nhiên và con người. Lá trúc mảnh mai, mặt chữ điền gợi vẻ đẹp e ấp, kín đáo, duyên dáng, rất nữ tính, rất Huế.. Tất cả tạo nên sự hài hòa giữa con người và cảnh vật.

Gió theo gió, mây theo mây
Nước buồn hoa ngô đồng

Bài thơ thu hồn xứ Huế. Sông Hương, núi Ngự hiện lên với vẻ đẹp đặc trưng của xứ Huế, dòng sông Hương luôn chậm rãi chảy, như một “bản tình ca chậm dành riêng cho xứ Huế” (Hoàng Phủ Ngọc Tường). Hai bên bờ sông là những vườn ngô với những bông hoa khẽ lay động. Tuy nhiên, trong mắt Hàn Mặc Tử, cảnh vật hiện lên cách biệt: “Nước buồn hoa ngô đồng nằm”. Sự nhân cách hóa khiến dòng sông như mang theo nỗi niềm khôn nguôi của nhà thơ. Đó là khi tâm trí đã nhuốm màu với thế giới bên ngoài. Nỗi buồn của thi nhân dường như bao trùm lên cảnh vật: gió, mây, dòng sông, hoa ngô đồng... Ngước nhìn trời thấy mây gió chia lìa; nhìn xuống sông, thấy sông trở nên “buồn thiu”; Nhìn quanh cảnh chỉ thấy những bông ngô đồng khẽ "rung rinh". “Lay” là động từ diễn tả những chuyển động rất nhẹ nhàng, phải quan sát thật tinh tế mới cảm nhận được nét vẽ kỳ diệu ấy. Ca dao xưa cũng có câu:

“Ai về Giồng Dừa qua cánh đồng
Gió lay cây sậy bỏ tôi buồn”

Đúng! Đằng sau những khung cảnh ấy là tâm trạng của một con người mang một nỗi buồn chia ly, một tình yêu đơn phương vô vọng.

“Thuyền ai cập bến sông trăng
Cõng trăng đêm nay”

Đọc bài thơ, người đọc như lạc vào cõi mộng. Có bến trăng, sông trăng, thuyền chở trăng. Trăng dưới ngòi bút tài hoa của Hàn Mặc Tử bỗng trở nên huyền ảo, tràn ngập vũ trụ, tạo nên một bầu không khí nửa thực nửa hư, như trong cõi mộng. Mặt trăng là biểu tượng của vẻ đẹp, hạnh phúc và niềm vui. Với Hàn Mặc Tử, trong khung cảnh ấy, vầng trăng vốn có nghĩa là “một bấu víu, như tri kỷ, tri kỷ” thì giờ đây nó chỉ còn là niềm mong ước, mong gặp và cả sự xao xuyến. về sự chậm trễ và kinh doanh dở dang. Bởi vậy, câu thơ của Từ vang lên như một câu hỏi đau đáu, một nỗi day dứt đầy day dứt “Có mang trăng về kịp đêm nay không?”.

“Đêm nay” là đêm nào, phải chăng đây là giới hạn cuối cùng của cuộc đời nhà thơ - khi cuộc đời người đó là một cuộc chạy đua với thời gian. "Đêm nay" là ranh giới giữa sự sống và cái chết. Phải chăng vì thế mà câu hỏi tu từ vang lên khẩn thiết: “Đêm nay có đưa trăng về kịp không?”. Liệu con thuyền ấy có bao giờ cập bến trước khi Hàn Mặc Tử về cõi vĩnh hằng? Từ “kịp thời” vì thế vừa chứa đựng tâm trạng nhớ nhung, vừa yêu thương, vừa bi đát, hoài nghi của con người.

"Cõng trăng đêm nay?" là câu hỏi chứa đựng sự day dứt, mong mỏi và sợ hãi. Một sự lo lắng và hi vọng vô định trong tâm trạng nhà thơ. Hàn Mặc Tử cảm thấy thời gian trôi trong khi mình bơ vơ. Chính vì thế người đọc càng hiểu rõ hơn sự thôi thúc trong lời mời gọi ở câu thơ đầu, càng đồng cảm với khát vọng sống mãnh liệt của nhà thơ khi cái chết cận kề.

Thành công của đoạn thơ nói riêng và bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” nói chung là nhờ một số yếu tố nghệ thuật đã được Hàn Mặc Tử vận ​​dụng sáng tạo: nhiều biện pháp tu từ nhằm tăng sức gợi cho hình ảnh như: : so sánh, điệp ngữ, câu hỏi tu từ, phép đối chiếu tương phản; ngôn ngữ thơ giản dị, mộc mạc; giọng thơ dịu dàng, tình cảm. Tất cả đã hòa quyện vào nhau chắp cánh cho ngòi bút nhà thơ thăng hoa cùng cảm xúc.

Phân tích 2 khổ thơ đầu của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu 11

Hàn Mặc Tử là một nhà thơ có tâm hồn nhạy cảm, những sáng tác của anh được sáng tác và đi vào lòng người một cách rất tự nhiên và sâu sắc, để lại nhiều suy ngẫm cho người đọc. Một trong những bài thơ như vậy là bài Đây thôn Vĩ Dạ, một bài thơ gợi nhiều liên tưởng đến xứ Huế thơ mộng, với vẻ đẹp vừa giản dị vừa đáng yêu như chính cô gái mà tác giả đang thầm yêu.

Không chỉ vậy, bài thơ còn thể hiện niềm khát khao được sống và được yêu tha thiết của nhà thơ. Đặc biệt, hai khổ thơ đầu tả cảnh thanh bình, hình ảnh người đẹp e ấp bên lũy tre lá và tâm trạng thay đổi thất thường của nhân vật trữ tình trong bài thơ.

Khác với những bài thơ khác, mở đầu bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” không phải là một câu miêu tả hay một câu cảm thán mà là một câu hỏi tu từ:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Cảm hứng bài thơ được rút ra từ tấm thiệp Hoàng Thị Kim Cúc viết cho Hàn Mặc Tử, câu chữ khiến cảm xúc tác giả ùa về, gợi nhớ một vùng quê xứ Huế quyến rũ. Dòng đầu tiên của bài thơ, mở đầu bằng một câu hỏi lạ nhưng cũng là một câu hỏi tu từ không có đáp án, càng làm cho mạch cảm xúc của bài thơ trở nên dạt dào khó tả. Dù không được ở gần, không được một lần về thăm Vĩ Dạ nhưng với nỗi nhớ đã đưa Hàn Mặc Tử trở lại Huế. Câu hỏi tu từ như một lời trách móc, hờn dỗi của người con gái muốn thủ thỉ: sao đã lâu rồi anh chưa về thăm xứ Đà một lần.

Câu hỏi không nhằm tìm câu trả lời nên gợi một cảm giác bơ vơ, khó tả. Lời nói như một lời mời gọi, vừa như một lời giới thiệu nhưng cũng như một sự tiếc nuối của chính tác giả đã lâu không có dịp về thăm lại chốn cũ: “Sao anh không về thăm thôn Vĩ? - một sự tự vấn, tự trách mình.

Khung cảnh Vĩ Dạ dần hiện ra với nhiều cảnh sắc, vừa có nắng vừa có màu rực rỡ và có hình ảnh hàng tre lá đung đưa trước ngõ nhà ai. Cái tài độc đáo của tác giả là khơi gợi những tưởng tượng mới cho chính người đọc.

Không trực tiếp sống ở Vĩ Dạ nhưng với nỗi nhớ da diết về Vĩ Dạ, tác giả có thể nhân bản mình mà đặt chân về thăm thôn Vĩ thân yêu. Mỗi câu thơ như trích dẫn một vẻ đẹp của nơi đây, không những thế những từ ngữ dùng để tả cảnh cũng vừa đẹp vừa gợi. Mọi thứ đều hài hòa và phản chiếu một vẻ đẹp tinh tế, thuần khiết. Hình ảnh cây cau gợi vẻ đẹp thanh tao, cao vút vươn mình lên đón ánh ban mai. Lọt vào đó là những tia nắng bình minh vừa rực rỡ vừa dịu dàng như rải một cái nhìn thân thiện mà mời gọi cho Vĩ Dạ. Nắng ở đây càng trở nên đẹp và lạ hơn khi được tác giả khoác lên mình chiếc áo có dòng chữ “nắng mới”. Mặt trời ấy thật thanh khiết nhưng cũng thật trong trẻo, không một gợn sóng của một đêm dài đã trải qua.

Tác giả như dẫn dắt người đọc đi sâu hơn vào cảnh thôn Vĩ. Để so sánh, những khu vườn nơi đây đã trở nên quyến rũ trong mắt người đọc qua con mắt nghệ sĩ của Hàn Mặc Tử: “Vườn ai xanh như ngọc”. Dường như cây cối thôn Vĩ quanh năm tươi tốt. Từ “mướt” dùng ở đây quả thật không quá, xanh tươi, mượt mà và tràn đầy sức sống. Nhịp thơ uyển chuyển kết hợp với những từ ngữ có tính tượng hình cao, khung cảnh nơi đây dường như đẹp huyền bí hơn, vừa có màu của mặt trời mọc, vừa có màu xanh của những khu vườn, vạn vật đều tươi tốt. mới và tràn đầy sức sống.

Hình ảnh vầng trăng không chỉ xuất hiện trong bài thơ này mà còn là chất liệu cho nhiều bài thơ của nhiều nhà thơ khác. Ánh trăng là biểu tượng của cái đẹp, tượng trưng cho hạnh phúc, bình yên. Đối với Hàn Mặc Tử, hình ảnh trong thơ gợi lên một niềm tin yêu, một niềm hi vọng. Chỉ có trong thơ ca dòng sông trăng và hình ảnh con thuyền chở trăng mới thơ mộng đến thế. Nghệ thuật ẩn dụ này đã đem lại cảm giác mong chờ, mong ước nhưng đồng thời cũng là một sự dự cảm, băn khoăn: “có đưa trăng về kịp đêm nay không?”. Lời thơ như một câu hỏi không lời giải đáp. Hai câu thơ diễn tả tâm trạng mong mỏi được gặp gỡ nhưng đồng thời cũng bộc lộ nỗi băn khoăn không nguôi.

Tuy ra đời đã lâu nhưng bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ nói chung và cảm nhận của em về hai khổ thơ đầu của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ nói riêng đã tạo cho người đọc biết bao cảm xúc từ ngàn xưa. chí kim. Nó không chỉ gợi vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn tiêu biểu cho hồn thơ Hàn Mặc Tử, một hồn thơ nhạy cảm, muốn giao hòa với cuộc đời và con người.

Phân tích hai khổ thơ đầu của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu 12

Vĩ Dạ là một ngôi làng cổ đẹp nổi tiếng bên bờ Hương Giang, ngoại thành cố đô Huế. Cảnh vật thanh bình, thơ mộng. Với Hàn Mặc Tử, chắc có nhiều kỷ niệm đẹp? Câu mở đầu như một lời mời gọi, như một giọng trách móc nhẹ nhàng:

" Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Đồng thời, đó cũng là câu HMT tự vấn, tự trách mình. Đây cũng là hình thức bày tỏ cái cớ để tác giả nói về thôn Vĩ, nhớ thôn Vĩ cũng như người dân thôn Vĩ.

“Nắng hàng cau mới ngước nhìn,
Vườn ai xanh như ngọc
Lá tre che ngang hoàn chỉnh kiểu chữ"

Cảnh Vĩ Dạ được cho là hàng cau với mặt trời mới mọc, bình minh rực rỡ. Là màu xanh cây trái của “vườn ai”, ngỡ ngàng, bâng khuâng rồi thốt lên “xanh mượt như ngọc”. Màu xanh mượt, bóng. Một so sánh thật đắt giá gợi tả sắc xuân xuân của “vườn ai”? Thiên nhiên thôn Vĩ hiện lên đẹp đẽ, ấm áp, rực rỡ và thanh khiết như chính tình cảm của tác giả dành cho nơi đây.

Tỏa sáng giữa vẻ đẹp của thiên nhiên, thấp thoáng sau hàng tre thấp thoáng một bóng người: “mặt chữ điền”. Nét vẽ “Lá trúc đi ngang” là nét vẽ huyền ảo gợi tả vẻ kín đáo, yểu điệu của người con gái thôn Vĩ. Còn nói “vườn ai” thì đó là vườn xuân của người thiếu nữ. Hàng cau, nắng, màu xanh ngọc bích của vườn cây, lá tre và mặt chữ điền, một bức tranh thiên nhiên có chủ đề màu sắc, nét vẽ đầy chỉnh chu của tác giả, nét nào cũng tinh tế, thanh thoát, gợi bao niềm thương nhớ.

Khung cảnh thiên nhiên thôn Vĩ đã thay đổi, dường như đã trở nên buồn hơn, mọi thứ dường như bị ngăn cách. Một vùng quê thơ mộng thoáng đãng. Có gió, mây, hoa và nước. Cảnh đẹp đầy thơ mộng, cổ điển. Mây gió chia đôi. Dòng nước buồn man mác, man mác. Hoa ngô đồng “đẻ” nhẹ nhàng cũng gợi nỗi buồn man mác. Những hình ảnh ấy cùng với nhịp thơ chậm rãi, nhẹ nhàng tạo nên một nét buồn riêng của xứ Huế, đồng thời cũng là nỗi buồn của tác giả.

" Gió nối tiếp gió, mây nối tiếp mây,
Nước buồn, bông ngô đung đưa”

Khổ một là nói đến “mặt trời mới”, mặt trời bình minh. Câu 2, nói về “bến sông trăng”, bến trong nỗi nhớ. Vầng trăng tình yêu đợi chờ. “Thuyền” chắc là thuyền của cô gái? Bài thơ trăng đẹp nhất trong thơ Hàn Mặc Tử. Có bến sông trăng, có con đò trăng. Thật thơ mộng, lãng mạn:

“Thuyền ai cập bến sông trăng
Cõng trăng đêm nay?”

Bến và thuyền như được tắm mình trong ánh trăng dịu hiền, vừa thơ mộng, vừa mơ hồ, huyền ảo. Liệu đêm nay có chở trăng về kịp không”, câu thơ đầy ám ảnh, như một lời van xin, một mong con thuyền sẽ trở về đúng lúc, nếu không, số phận kia sẽ bị bỏ rơi, sẽ rơi vào tuyệt vọng và đau đớn.

Câu thơ của Hàn Mặc Tử viết về bến sông trăng và con đò gợi nhớ đến câu ca dao “thuyền có nhớ bến, bến khăng khăng đợi thuyền”. Và như vậy cảm nhận được 2 khổ thơ đầu của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ thấm đẫm một nỗi niềm nhớ nhung, một sự chờ đợi mơ hồ, mơ hồ và bâng khuâng.

Phân tích hai khổ thơ đầu của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu 13

Hàn Mặc Tử là nhà thơ nổi bật của phong trào thơ mới với nhiều bài thơ đặc sắc. Nhưng có lẽ, trong giới làm thơ, chưa ai thấy một số phận nghiệt ngã như Hàn Mặc Tử. Và số phận éo le ấy đã được dự đoán qua những biệt danh buồn của anh như Phong Trần (nghĩa là gió bụi) hay Lê Thành (nghĩa là tiếng nước mắt). Tác phẩm của Hàn Mặc Tử có vẻ hơi buồn, dù mọi thứ trong thơ có nhẹ nhàng đến đâu. Phân tích hai khổ thơ đầu của bài này, chúng ta sẽ hiểu rõ điều này.

Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử là ba đỉnh cao của phong trào thơ mới Việt Nam, trong đó Hàn Mặc Tử là một hiện tại thơ rất khác.

Thơ dữ dội của Hàn Mặc Tử luôn chứa đựng những mâu thuẫn giữa cảnh vật và tinh thần. Thế giới ngoài kia tươi đẹp nhưng anh mắc bệnh tật nên sự hưởng thụ luôn bị hạn chế. Vì vậy, trong các tác phẩm thơ của mình, ông luôn thể hiện khát vọng sống, khát vọng đồng cảm với ngoại cảnh, với cuộc đời.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được sáng tác năm 1938, được tác giả khơi nguồn cảm hứng từ mối tình đơn phương của Hàn Mặc Tử với một thiếu nữ ở Huế. Bài thơ này được cho là nằm trong tập thơ “Thơ Điên” sau đổi thành “Nỗi Đau” như cuộc đời của một nhà thơ tài hoa đã cam chịu.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” luôn được nhiều thế hệ yêu thích và có 3 ý kiến ​​cho bài thơ. Thứ nhất, bài thơ là tiếng nói của trái tim, là sự trăn trở của một mối tình thầm kín; sau đó là những lời yêu thương về một vùng quê thanh bình và thứ ba, bài thơ là khát vọng sống của nhà thơ, khát vọng được cảm thông, sẻ chia với cuộc đời. Và hai khổ thơ thể hiện rõ tình cảm tác giả gửi gắm qua bài thơ:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Hàng cau nắng mới ngước nhìn.
Vườn ai xanh như ngọc
Lá tre che ngang hoàn chỉnh mặt chữ.

Gió nối tiếp gió, mây nối tiếp mây,
Nước buồn, hoa ngô đồng...
Thuyền ai cập bến sông trăng kia,
Liệu trăng có về kịp đêm nay

Thơ bao giờ cũng là sự phản ánh cuộc sống qua lăng kính của thi nhân, qua tâm hồn sắc sảo của thi nhân. Vì vậy, thơ luôn mang những tâm tư, tình cảm mà người nghệ sĩ muốn gửi gắm, thể hiện. Còn Hàn Mặc Tử thì luôn sáng tạo, không ngừng chiêm nghiệm cuộc đời để cho ra đời nhiều tác phẩm đặc sắc. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một tác phẩm tiêu biểu.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Câu hỏi tu từ này là sự phân đôi của nhà thơ. Lúc này Hàn Mặc Tử đang hóa thân thành một cô gái Huế và hỏi với giọng nhẹ nhàng trách móc, ai oán. Từ "chơi" có vẻ là một cách chơi chữ. Vì tác giả có thể dùng từ "thăm" nhưng lại làm mất đi sự thân thuộc gần gũi.

Câu thơ cũng có thể là lời tự trách, tự hỏi sao Huế đẹp thế mà anh không ra chơi. Câu hỏi ấy đau đáu, bởi có lẽ khi viết bài thơ này, nhà thơ đang phải chịu đựng nỗi đau của căn bệnh phong hủi giai đoạn cuối. Vì thế, được ra Huế chơi đã trở thành niềm ao ước của Hàn Mặc Tử.

Dù không thể trở lại Huế nhưng trong tâm trí nhà thơ, thiên nhiên thôn Vĩ vẫn lung linh, tươi đẹp:

“Nắng hàng cau mới ngước mặt lên
Vườn ai xanh như ngọc
Lá tre che ngang hoàn chỉnh kiểu chữ"

Ba câu thơ đã khắc họa thành công một bức tranh thôn Vĩ thơ mộng, từ xa đến gần. Từ “nắng” gợi ra trước mắt người đọc một không gian ngập tràn ánh sáng. Còn cau là loài cây đặc trưng của thôn Vĩ, thân thẳng tắp với tán lá xanh mướt khiến thực khách phải thốt lên “vườn nhà ai xanh như ngọc”. Tuy nói là “vườn của ai” nhưng ai cũng biết đó là khu vườn của một cô gái Huế.

“Xanh mượt như ngọc”. Xanh như ngọc là màu xanh thuần khiết, màu xanh tinh túy kết tinh từ nắng, từ sương. Màu xanh ngọc ấy đã tạo nên một khu vườn hữu tình và thôn Vĩ vì thế mà trở nên đẹp hơn. Nhưng bức tranh quê ấy hoàn hảo hơn, có thần tình hơn khi thấp thoáng bóng dáng thiếu nữ: “lá tre che mặt phông”. Như lũy tre lá, Đây thôn Vĩ Dạ nổi tiếng với cây trúc luôn được trồng trước ngõ. Vì thế, trong tâm trí nhà thơ, khuôn mặt chữ điền thấp thoáng sau hàng tre.

Trước hết, người đọc có thể thấy rõ, tất cả cảnh vật và con người tạo nên một bức tranh hài hòa giữa con người và thiên nhiên. Nhưng có lẽ nếu thơ chỉ có niềm vui, niềm lạc quan yêu đời thì đã không phải là thơ Hàn Mặc Tử. Vì thế, sau khổ thơ đầu rạng ngời nắng, ở khổ thơ thứ hai giọng điệu thơ đã chuyển sang niềm day dứt về sự chia ly:

“Gió theo gió, theo mây theo mây
Nước buồn hoa ngô nằm.”

Với hai câu thơ này, vẻ đẹp đặc trưng của xứ Huế được thể hiện rõ nét. Đó là dòng Hương trôi, là vườn trộm, trên kia “gió theo chiều gió”, mây đi lối mây. Dẫu biết mây và gió là hai hiện tượng không thể tách rời, nhưng vì gió có thổi thì mây mới bay được. Tuy nhiên, trong câu thơ của Hàn Mặc Tử, gió và mây chia tay, nước buồn mang một tâm trạng khó tả.

“Thuyền ai cập bến sông trăng
Cõng trăng đêm nay”

Hai câu thơ tiếp theo vẫn là dòng sông Hương, kinh thành Huế mộng mơ nhưng nay đã không còn nắng, màu xanh ngọc của Vĩ Dạ giờ là một không gian tràn ngập ánh sáng của trăng. Và thuyền trở thành thuyền trăng, sông trở thành sông trăng và bến là bến trăng.

Bến trăng, thuyền trăng đã nhiều lần xuất hiện trong thơ ca, nhưng sông trăng là một hình ảnh mới. Vì thế, câu thơ như đưa người đọc vào cõi mộng. Và "Bạn có thể mang mặt trăng trở lại thời gian cho đêm nay?" là câu hỏi mong đợi, hồi hộp, lo lắng và nghi hoặc, khẩn thiết; Đó cũng chính là câu hỏi mà nhà thơ tự hỏi mình. Nhà văn ý thức được rằng, nếu đêm nay trăng không “về kịp” thì tôi sẽ mãi mãi chìm trong đau đớn, tuyệt vọng.

Qua việc phân tích hai khổ thơ đầu của bài Đây thôn Vĩ Dạ có thể thấy, thành công của hai khổ thơ là nhờ các biện pháp tu từ như điệp ngữ, đặt câu hỏi, so sánh bằng liên tưởng. Bằng những nét vẽ nghệ thuật, Hàn Mặc Tử đã khắc họa nên một khung cảnh thơ mộng, tràn đầy sức sống nhưng cũng mang nỗi buồn, nỗi lòng của một thi nhân chịu nhiều bất hạnh.

Phân tích khổ thơ 1, 2 Đây thôn Vĩ Dạ – Văn mẫu 14

Hàn Mặc Tử là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất trong phong trào Thơ Mới Việt Nam. Thơ Hàn Mặc Tử có một “diện mạo” độc đáo, cá tính và cũng đầy bí ẩn. Bên cạnh những vần thơ chứa đựng nhiều cảm xúc và hình ảnh trăng máu đầy ám ảnh, “Đây thôn Vĩ Dạ” là một trong số rất ít bài thơ có hình ảnh trong sáng, trong trẻo và giàu cảm xúc với tình yêu của nhà thơ. cho thôn Vĩ và người con gái xứ Huế. Ở hai khổ thơ đầu, nhà thơ đã tái hiện một cách sinh động bức tranh thiên nhiên xứ Huế và những tình cảm, cảm xúc chân thực nhất của mình.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”

Câu thơ mở đầu như một câu hỏi, nhưng ẩn chứa trong đó là lời trách móc rất nhẹ nhàng và tình cảm. Trong câu hỏi ấy còn có lời mời gọi tha thiết của cô thôn Vĩ đối với tác giả. Đó cũng có thể là lời tự trách của tác giả, là niềm mong ước thầm kín của nhà thơ: Trở về thăm thôn và người thôn Vĩ. Câu thơ không dùng từ “thăm chơi” mà dùng từ “đi chơi” với hàm ý mang sắc thái gần gũi, tự nhiên, thân mật. Hai câu thơ tiếp theo là bức tranh thiên nhiên khu vườn nhỏ thôn Vĩ trong hồi ức của nhà thơ:

“Nắng hàng cau mới ngước mặt lên
Vườn ai xanh như ngọc”

Có thể thấy nhà thơ không tả cảnh mà chỉ gợi cảnh, gợi những hình ảnh ấn tượng, đẹp đẽ nhất. Những hàng cau cao thẳng tắp dưới ánh nắng bình minh như mở ra khung cảnh thanh bình, khoáng đạt của thôn Vĩ. Nắng mới đã làm đẹp cho cây cau, nắng sớm trải đều trên cây cau tạo nên vẻ đẹp hài hòa, thống nhất, là sự hài hòa giữa thiên nhiên và cảnh vật.

Câu thơ “Vườn ai xanh như ngọc” khiến người đọc có cảm giác như nhà thơ đang đi giữa khu vườn thôn Vĩ. Tính từ “mướt”, “xanh” và phép so sánh độc đáo “nhẵn như ngọc” gợi ấn tượng về một khu vườn xanh tươi, sạch bóng như màu xanh của ngọc bích. Đó là một khu vườn quê đẹp mộc mạc trong nắng mai.

Sự xuất hiện bất ngờ của con người trong câu thơ “Lá tre che mặt chữ điền” đã làm cho bức tranh phong cảnh thêm sinh động, có lẽ đây chính là chủ nhân của khu vườn. Dáng vẻ có phần kín đáo, bẽn lẽn của người Huế, khuôn mặt chữ hiền thấp thoáng sau rặng tre lá giăng ngang. Có thể nói, chỉ với bốn dòng ở khổ thơ đầu, Hàn Mặc Tử đã phác họa rõ nét thiên nhiên cũng như con người thôn Vĩ: mảnh vườn tươi đẹp, con người ngay thẳng, nhân hậu.

Bước ra khỏi khu vườn nhỏ ở thôn Vĩ, tác giả đưa người đọc đến với thế giới của những tình cảm dịu êm, tha thiết nhưng cũng đầy trăn trở, lo toan của nhà thơ. Nỗi buồn chia ly, cảm giác tội lỗi của sự chia ly được thể hiện rõ nét qua bài thơ “Gió theo gió, mây theo mây”. Câu thơ gợi nhịp điệu êm đềm, nhẹ nhàng của dòng sông và trạng thái khác nhau của mây, gió. Mây và gió vốn dĩ là một cặp hình ảnh chỉ sự gắn bó, không thể tách rời nhưng trong câu thơ của Hàn Mặc Tử, ta thấy gió và mây không đi cùng nhau mà đi ngược chiều nhau. dường như không liên quan. Thực ra lấy gió thổi mây bay, lấy gió sông làm sóng, nhưng ở đây mây gió tách rời nhau, thể hiện sự đối lập trong cảm xúc của nhà thơ. Mây gió không hòa nên dòng nước không gợn sóng, chỉ buồn nhìn bông ngô đồng lay nhẹ. Bức tranh sông tuy đẹp nhưng lại ảm đạm, lạnh lẽo, trống trải, chất chứa nỗi buồn, sự cô đơn, mất mát của nhà thơ trước cuộc đời, cuộc đời.

Xem thêm: sách tiếng việt lớp 3 tập 2

“Thuyền ai cập bến sông trăng
Cõng trăng đêm nay?”

Dù mang tâm trạng buồn, cô đơn nhưng nhà thơ không mất hi vọng vào sự yêu thương, đáp trả. Tình yêu của tác giả không chỉ dành cho cô gái thôn Vĩ mà còn dành cho thiên nhiên và con người nơi đây. Cảnh sông trở nên huyền ảo, nên thơ và lung linh, dòng sông không còn là dòng sông mà là dòng sông trăng nơi tràn ngập ánh trăng sáng. Con thuyền không chỉ chở ánh trăng mà còn chở niềm hi vọng nhỏ nhoi của nhà thơ. "Cõng trăng đêm nay?" Câu hỏi thể hiện sự băn khoăn, trăn trở, giữa màn sương mù dày đặc của tuyệt vọng và đau thương, trong tâm hồn thi nhân vẫn nhen nhóm một niềm hy vọng nhỏ nhoi. Phải chở “đúng giờ đêm nay” chứ không phải đêm nào khác, có lẽ vì nhà thơ quá cô đơn, trống trải hay chờ đợi quá lâu, chỉ có trăng mới hiểu được nỗi lòng thầm kín của nhà thơ. nhà thơ. Bằng nghệ thuật tu từ và dùng từ gợi tả, nhà thơ đã đem đến một bức tranh thiên nhiên đẹp nhưng đầy tâm trạng. Nhịp thơ cũng như các phép điệp ngữ được sử dụng tạo nên sự đối lập trong từng câu thơ, các hình ảnh trong thơ được nhân cách hóa độc đáo tạo nên một bài thơ trữ tình độc đáo và sâu sắc.

Qua hai khổ thơ đầu của bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, nhà thơ Hàn Mặc Tử đã đưa người đọc mở rộng tầm mắt, hiểu thêm về thiên nhiên và con người xứ Huế thơ mộng. Bên cạnh đó ta cũng phần nào hiểu được những tâm tư, nỗi buồn sâu kín trong lòng tác giả. Một ngôi làng nhỏ ven sông Hương nhờ Hàn Mặc Tử đã trở thành một hình ảnh đẹp, trong trẻo và đậm chất Huế.