Phân tích 8 câu đầu của bài Việt Bắc Tác giả Tố Hữu gồm dàn ý và 4 bài văn mẫu chọn lọc hay nhất. Qua đó sẽ giúp các em có thêm gợi ý tham khảo, có bài viết đầy đủ từ ngữ hay và ăn điểm nhờ sự sáng tạo, mang màu sắc cá nhân khi làm bài để đạt điểm cao trong bài thi. kỳ thi.
8 câu đầu của Việt Bắc người đọc đã bày tỏ tình cảm, xúc động trước tình cảm chân thành giữa đồng bào ở chiến khu Việt Bắc với cán bộ, chiến sĩ cách mạng. Vì thế, khi phải nói lời chia tay, tình cảm sâu nặng của người đi, người ở càng thêm khắc khoải, lưu luyến. Vậy đây là 4 bài văn phân tích Việt Bắc với 8 câu đầu nhé lớp 12 cùng tham khảo..
Bạn đang xem: phân tích 8 câu đầu việt bắc

Tìm hiểu thêm:
- Phân tích khái quát Việt Bắc
- Phân tích 12 câu tiếp bài Việt Bắc
- Sáng tác Việt Bắc
1. Phân tích dàn ý 8 câu đầu bài Việt Bắc
* Dàn ý Mở bài Phân tích 8 câu đầu của bài Việt Bắc
– Tố Hữu là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trữ tình chính trị.
- Dẫn vào bài thơ tám câu cần phân tích.
* Dàn ý Thân bài phân tích 8 câu đầu của bài Việt Bắc
1, Bốn dòng đầu của bài thơ: Nhắc lại những kỉ niệm của một thời đã qua, về không gian, thời gian, cội nguồn.
– Cảnh chia ly giữa người ở và người về.
- Cách xưng hô “ta với ta”: thân mật, gần gũi, tình cảm như trong ca dao.
– Điệp ngữ và cấu trúc tu từ được lặp lại hai lần như gợi nhiều kỉ niệm. Hai câu đầu đều hướng về nỗi nhớ, một hoài niệm về thời gian “mười lăm năm”, một hoài niệm về không gian: “sông núi, cội nguồn”.
⇒ Đó là khoảng thời gian gắn bó biết bao kỉ niệm của người dân Việt Bắc với người chiến sĩ cách mạng.
2, Bốn câu thơ sau: Tiếng lòng người lính trở về mang theo bao nỗi nhớ da diết, đau đáu.
- Từ “tiếc” thể hiện sự xao xuyến, nhớ nhung, “băn khoăn” thể hiện sự bồn chồn, không muốn rời xa.
– Hình ảnh “áo chàm” chỉ những con người Việt Bắc chất phác, hiền lành, chất phác.
– Hành động nắm tay thay lời muốn nói đầy cảm xúc.
- Lời nhắn nhủ của người ở lại với người ra đi: Lời nhắn nhủ được thể hiện dưới hình thức câu hỏi: nhớ Việt Bắc, quê hương cách mạng, nhớ thiên nhiên, nhớ núi rừng Việt Bắc, nhớ những địa danh lịch sử, đặc biệt là nhớ tấm chân tình. ký ức…
- Nghệ thuật :
- Liệt kê tất cả những kỷ niệm.
- Ẩn dụ, nhân hóa
- Từ "tôi".
- Cách ngắt nhịp 4/4 đều gợi cảm tha thiết nhắc nhở.
- => Thiên nhiên, rừng núi, đất và người Việt Bắc với bao ân tình thủy chung.
* Dàn ý Kết bài Phân tích 8 câu đầu bài Việt Bắc
– Phát biểu cảm nghĩ sau khi phân tích 8 câu thơ trên
– Kết và đánh giá toàn diện 8 câu thơ đầu
2. Phân tích 8 câu đầu bài Việt Bắc (Mẫu 1)
Tố Hữu, ông là một trong những nhà thơ trữ tình chính trị. Vừa tham gia kháng chiến, vừa làm thơ, Người đã dành nhiều tình cảm cho nhân dân và lý tưởng Cách mạng Việt Nam. Đặc biệt, tác phẩm “Việt Bắc” là một trong những tác phẩm để đời của Người, là bài thơ thấm đẫm hồn thơ Tố Hữu và là bản anh hùng ca về cuộc kháng chiến, chống thực dân Pháp.
Tác phẩm được viết nhân sự kiện các cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ phải rời chiến khu Việt Bắc trở về thủ đô Hà Nội, sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết thắng lợi vào tháng 10 năm 1954. trong lịch sử dân tộc mà còn là lời tỏ tình thân thương, thể hiện tình cảm thắm thiết, thủy chung của người đi và chiến khu Việt Bắc. Cảnh chia ly được nhà thơ miêu tả chân thực, sinh động và giàu cảm xúc với 8 câu thơ đầu:
"Anh về rồi, em có nhớ anh không?
Mười lăm năm mặn nồng
Em về rồi anh có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
Tiếng ai thiết tha trong men rượu
Chán nản trong bước đi không ngừng nghỉ
Màu chàm mang đến sự chia ly
Chúng tôi nắm tay nhau, không biết nói gì”.
Theo Việt sử lược, Việt Bắc còn là tên gọi chung của sáu tỉnh miền Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp là Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang và Hà Giang viết tắt. “Cao - Bắc - Lạng - Thái - Tuyên - Hà”. Đây là khu căn cứ địa kháng chiến, được Đảng và Chính phủ Cộng sản thành lập năm 1940. Nơi đây, đồng bào Việt Bắc và các chiến sĩ cách mạng đã trải qua 15 năm đoàn kết gắn bó, kể từ năm 1940 đến năm 1954.
Sau khi quân và dân ta đánh thắng giặc ngoại xâm, làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng, chấn động thế giới, tháng 10-1954, Ban Chấp hành Trung ương Đảng và các đồng chí cán bộ của Trung ương rời Chiến khu Việt Bắc. Cảnh và người trong buổi chia tay ấy đã trở thành nguồn cảm hứng để tác giả Tố Hữu viết nên bài thơ nổi tiếng “Việt Bắc”. Xuyên suốt tác phẩm là hoài niệm về những năm tháng gian khổ nhưng chan chứa tình quân dân.
"Anh về rồi, em có nhớ anh không?
Mười lăm năm nồng nàn và say đắm.
Em về rồi anh có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã sử dụng một câu hỏi tu từ mang âm hưởng dân gian: “Đi một mình về có nhớ ta không”. “Em về” ở đây cho người đọc thấy hoàn cảnh dẫn đến tình cảm ở lại của người đi. Đó là đưa mọi người trở về nhà. Các từ “tôi” và “ta” được xếp đứng cách xa nhau và từ “nhớ” được đặt ở giữa. Điều đó cho chúng ta thấy rằng, dù xa nhau bao lâu, bao lâu chúng ta vẫn luôn nhớ về nhau. Nỗi nhớ ấy dựa trên 15 năm gắn bó thiết tha, nồng nàn: “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng”. Có thể thấy, câu thơ mang dáng vẻ hoài cổ trong thơ Kiều: “Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình// Mười lăm năm ấy biết bao ân tình”. Nhưng nếu như nàng Kiều đang nói về tình yêu đôi lứa thì ở đây tác giả đang nói đến tình đồng chí, đồng bào trong một thời kháng chiến, chiến đấu gian khổ, ác liệt. 15 năm với biết bao đau thương mất mát mà giờ đây chỉ còn là một tình yêu nồng cháy. 15 năm là khoảng thời gian có thể ví như ¼ cuộc đời của một con người. Người sống và người ra đi đã đùm bọc nhau, cùng nhau chia sẻ khó khăn, cùng nhau vào sinh ra tử.
Với 8 câu thơ đầu của Việt Bắc, ta càng cảm thấy trân trọng hơn tình cảm của con người Việt Bắc dành cho nhau, cùng chia sẻ đắng cay, ngọt bùi, gian khó. Dường như càng khốc liệt, người ta càng yêu nhau, đùm bọc nhau nhiều hơn. Vì vậy, ở câu sau, tác giả tiếp tục sử dụng câu hỏi tu từ: “Em có nhớ anh về em không”. Bây giờ, tôi và bạn đã hòa làm một. Lòng người ở, kẻ đi đều chung một nỗi nhớ. Và nỗi nhớ ấy không chỉ dừng lại trong lòng mà còn lan tỏa ra cả thiên nhiên, núi rừng, sông suối. Đây như một lời nhắn nhủ của người ở lại nhắn nhủ với người ra đi rằng, mai này dù đi đâu, nhìn cây nhớ núi rừng Việt Bắc, nhìn sông cũng nhớ. nguồn gốc. của vùng chiến sự này. Đồng thời là lời hứa hẹn của người lữ khách sẽ luôn nhớ về chiến khu Việt Bắc từ núi về nguồn mỗi khi nhìn thấy một ngọn cây, một dòng sông.
Trong đoạn thơ xuất hiện hai từ chỉ hành động : “thấy” và “nhớ”. Một hành động mô tả hoạt động thị giác, một động từ mô tả hoạt động tinh thần. Nhìn là nói về hiện tại, tương lai. Nhớ nói về quá khứ. Điều này nhấn mạnh rằng dù là người sống ở hiện tại và người đi đến tương lai thì hãy luôn nhớ về quá khứ cùng nhau. Động từ “nhớ” xuất hiện với tần suất dày đặc, như để khẳng định như để khắc sâu hơn vào tâm trí, tâm hồn và cảnh vật Việt Bắc về nỗi nhớ. Đồng thời, qua đây ta cảm nhận được tấm lòng, tình cảm chân thành của đồng bào miền núi dành cho các chiến sĩ cách mạng. Dù nghèo khổ, khó khăn, nguy hiểm, gian khổ đến đâu, họ vẫn luôn sẵn sàng dành cho những người cán bộ miền xuôi một tình cảm dịu dàng, bền chặt.
Nếu bốn câu thơ đầu của nhà thơ thể hiện tình cảm của đồng bào Việt Bắc đối với người cán bộ trở về mặt trận thì những câu thơ sau thể hiện tình cảm đáp lại của người chiến sĩ cách mạng và cán bộ đối với chiến sĩ chiến khu:
“Tiếng ai tha thiết bên men rượu
Chán nản trong bước đi không ngừng nghỉ
Áo chàm chia ly
Nắm tay nhau chẳng biết nói gì”
Các chiến sĩ cách mạng toan bước đi, chợt nghe tiếng “ai thiết tha” khiến họ bước đi mà lòng xao xuyến. Nhà thơ thật tài tình khi chỉ qua hai dòng thơ mà đã vẽ nên được sự lưu luyến, không nỡ chia xa của cả kẻ ở lẫn kẻ ra đi. Chỉ những người đã ở bên nhau rất lâu và dành cho nhau nhiều tình cảm mới khó có thể xa cách như thế. Vì cả người chiếm và người bị chiếm đều biết rằng chiến tranh sẽ còn tiếp diễn.
Cuộc hội ngộ không biết khi nào. Vì vậy, họ càng cảm thấy tiếc nuối. Giống như chân lý mà Chế Lan Viên đã từng khẳng định: “Khi ta ở chỉ là chỗ ở. Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn". Các chiến sĩ, cán bộ cách mạng đáp lại lời của dân làng rằng họ và chiến khu đã trở thành một phần tâm hồn của họ. Tác giả đã sử dụng hai cụm từ "xót xa" và "xót xa". để nhấn mạnh thêm nỗi khắc khoải, nỗi nhớ nhung không muốn ra đi.Người đi là những người cán bộ trở đi.Họ ra đi nhưng vẫn mang trong mình nỗi niềm và nỗi nhớ chiến khu.Họ yêu người trong chiến khu. Họ lo lắng rằng, những năm tới, người dân nơi đây sẽ ra sao, thực sự chưa ở đâu mà tình quân dân thắm thiết, cảm động như lúc này.
Hình ảnh buổi lễ tiễn biệt người ở và người đi đẫm nước mắt, nghẹn ngào của người chiến sĩ cách mạng và đồng bào Việt Bắc được diễn tả rõ nét nhất trong hai câu thơ cuối:
“Áo chàm chia ly”
Nắm tay nhau chẳng biết nói gì”
Nhắc đến “áo chàm” người ta nghĩ ngay đến hình ảnh chiếc áo nâu, màu áo của những người nông dân nghèo khổ, cần cù, chịu thương chịu khó đã cần mẫn phục vụ cách mạng nước nhà. Nhà thơ đã sử dụng hình ảnh ẩn dụ “Áo dài” nói về người nông dân Việt Bắc hiền lành, cần cù. Áo chàm ở đây không chỉ của riêng ai, mà của tất cả những người dân chiến khu Việt Bắc. Họ và cán bộ nắm tay nhau không biết nói gì. Không phải là không có gì để nói với nhau, mà là trong lòng họ có quá nhiều điều muốn nói. Họ muốn nói với nhau, muốn tâm sự với nhau thật nhiều nhưng không biết bắt đầu từ đâu. Vì vậy, hãy cứ nắm tay nhau để cảm nhận tình cảm của nhau. Bởi từ bàn tay, trái tim con người sẽ dễ dàng cảm nhận được. Dù tình cảm vô cùng keo sơn nhưng giữa những con người này luôn có lý trí. Họ hiểu rằng không còn cách nào khác. Cuộc vui nào cũng có lúc phải chia xa. Nhưng chia tay trong nước mắt hạnh phúc thì tốt hơn là trong đau khổ. Dù xa nhau nhưng đồng bào Việt Bắc và các chiến sĩ cách mạng vẫn có một niềm vui lớn, đó là niềm vui chiến thắng.
8 câu thơ đầu bài thơ Việt Bắc, nhà thơ Tố Hữu đã sử dụng nhưng biện pháp nghệ thuật làm cho lời thơ thêm hấp dẫn. Đầu tiên là về thơ lục bát. Với thể loại này giúp người đọc dễ nhớ, dễ thuộc, bởi đây là thể thơ đậm đà bản sắc văn hóa Việt Nam. Ngoài ra, lối hát đối đáp mang âm hưởng ca dao, dân ca càng làm cho bài thơ giàu nhạc điệu hơn. Kết hợp với nhiều biện pháp nhân xưng như hoán dụ, câu hỏi tu từ… đã góp phần làm cho bức tranh buổi tiệc chia tay thêm rõ nét, giàu cảm xúc.
Qua 8 câu thơ đầu của tác phẩm Việt Bắc, nhà thơ Tố Hữu đã khiến người đọc vô cùng xúc động trước tình cảm chân thành sâu sắc giữa đồng bào chiến khu Việt Bắc với cán bộ, chiến sĩ cách mạng. Nếu 15 năm người ta sống trong sung sướng, giàu sang chưa chắc đã gắn bó, tình cảm như khi người ta sống trong gian khổ, hiểm nguy. Vì thế, đến lúc phải nói lời chia tay, tình thân của người đi và người ở lại càng thêm day dứt, lưu luyến.
Là người trong cuộc và chứng kiến, nhà thơ Tố Hữu mang trong mình một hồn thơ yêu nước nên đã vẽ nên một bức tranh sống động, tuy mộc mạc, giản dị nhưng thấm đượm tình người.
3. Phân tích câu đầu bài Việt Bắc (Mẫu 2)
Tố Hữu là một trong những ngọn cờ đầu của nền thơ ca cách mạng nước nhà. Thơ ông luôn mang hơi hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, trữ tình. Trong sự nghiệp của mình, Tố Hữu đã có nhiều tác phẩm có giá trị như tập thơ “Từ ấy”, “Máu và hoa”… tiêu biểu nhất là bài thơ “Việt Bắc” trích trong tập thơ ""Việt Bắc". Đoạn thơ của tác giả đã thể hiện thành công việc miêu tả nỗi nhớ nhung, xao xuyến, nhớ nhung trong buổi chia tay của đồng bào ở chiến khu Việt Bắc với bộ đội, cán bộ cách mạng. Điều đó ta có thể thấy nhà thơ Tố Hữu đã thể hiện rõ nhất ở câu thơ:
"Anh về rồi, em có nhớ anh không?
Mười lăm năm nồng nàn và say đắm.
Em về rồi anh có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Tiếng ai thiết tha trong men rượu
Trong bụng bực bội bước đi không yên
Áo chàm chia ly
Chúng tôi nắm tay nhau, không biết nói gì…
Chiến khu Việt Bắc là một trong những căn cứ địa cách mạng, cái nôi chiến đấu và kháng chiến chống kẻ thù. Sau chiến thắng oanh liệt Điện Biên Phủ tháng 7 năm 1954, Hiệp định Giơnevơ được ký kết. Tháng 10 năm 1954, Đảng và chính phủ ta phải rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Cùng với sự kiện lịch sử vẻ vang đó, Tố Hữu đã viết bài thơ “Việt Bắc”.
Câu thơ mở đầu bài thơ đó là một câu hỏi tu từ chứa chan cảm xúc:
"Ta trở về, ngươi còn nhớ ta sao?"
Xem thêm: Review sảnh game CQ9 tại BK8 chi tiết cho tân thủ
Từ “ta” chỉ người ra đi - người chiến sĩ cách mạng, từ “ta” chỉ những người ở chiến khu Việt Bắc. Câu hỏi ấy là lời của người ở lại, hỏi người ra đi rằng khi người chiến sĩ cách mạng trở về Hà Nội, có còn nhớ đến những người nông dân Việt Bắc ở đây không? Với cách gọi “ta - ta” mà nhà thơ Tố Hữu đã sử dụng, mang đầy chất dân ca cùng với điệp ngữ tự cho ta thấy tình cảm thân thương, gần gũi của nhân dân. Việt Bắc dành tặng cho các chiến sĩ, cán bộ cách mạng, khiến nỗi nhớ càng thêm da diết. Người Việt Bắc muốn hỏi người chiến sĩ cách mạng có nhớ không:
“Mười lăm năm ấy nồng nàn say đắm”
Cụm từ “Mười lăm năm” chỉ là từ chỉ thời gian, khoảng thời gian chung sống, gắn bó với nhau giữa người lính và người nông dân ở chiến khu Việt Bắc. Đó là quãng thời gian rất dài cùng nhau tham gia kháng chiến, chống thực dân Pháp, cùng nhau vượt qua muôn vàn gian khổ. Từ “ấy” đồng âm nhưng tác giả không dùng từ “ấy” như để tăng thêm ý nghĩa của khoảng thời gian “mười lăm năm”, đồng thời để thể hiện sự trân trọng của tác giả đối với những tháng ngày gắn liền với nó. với đồng bào ở chiến khu Việt Bắc. Những từ như: “háo hức”, “mặn nồng” là những từ tác giả dùng để nhấn mạnh tình cảm yêu thương gắn bó giữa người nông dân Việt Bắc với bộ đội, cán bộ cách mạng. Từ đó, tác giả Tố Hữu muốn nhấn mạnh thêm để chúng ta thấy rõ hơn về lòng trung kiên thủy chung, luôn một lòng hướng về cách mạng, đối với bộ đội, cán bộ của đồng bào chiến khu Việt Bắc.
Những câu thơ tiếp theo, nhà thơ Tố Hữu viết như một lời nhắc nhở các chiến sĩ, cán bộ cách mạng rằng:
"Em về có nhớ anh không?"
Vẫn là những câu hỏi tu từ đó, vẫn là từ “tôi” ấy nhưng đây là câu hỏi mang âm hưởng như nhắc nhở rằng “có nhớ”. Người Việt Bắc muốn nhắn nhủ với các chiến sĩ và cán bộ cách mạng đang về thủ đô Hà Nội, khi trở về sẽ nhớ đến chiến khu Việt Bắc, xin mời:
“Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”
Khi trở lại thủ đô Hà Nội, những người chiến sĩ, cán bộ cách mạng khi nhìn thấy cây cối Hà Nội đâm chồi nảy lộc, lòng không khỏi bồi hồi nhưng lại nhớ đến vẻ đẹp hùng vĩ của núi rừng Việt Bắc. Nhớ về nơi đã gắn bó một thời, thủy chung, son sắc, nơi các chiến sĩ, cán bộ cách mạng và đồng bào Việt Bắc đã cùng nhau chiến đấu chống thực dân Pháp, cùng nhau vượt qua biết bao khó khăn. là gian khổ, gian nan. Thấy non sông là nhớ về cội nguồn, nhớ đến sông núi ở chiến khu Việt Bắc, nhớ đến những dòng sông đã đồng hành cùng các chiến sĩ cách mạng. Hay đó cũng là lời nhắc nhở của nhân dân chiến khu Việt Bắc với các chiến sĩ, cán bộ cách mạng, khi trở lại Hà Nội, nhìn phong cảnh nơi đô thị tươi đẹp ấy lại nhớ đến con mình? Người Việt Bắc đây, nhớ những ngày cùng nhau đồng hành, chiến đấu nơi núi rừng đầy hiểm nguy, trắc trở, vực thẳm. Ở đây, các từ “có thấy” và “có nhớ” tác giả sử dụng như muốn nhấn mạnh câu hỏi của người ở lại. Mong các chiến sĩ, cán bộ lão thành cách mạng mãi ghi nhớ nơi chiến khu Việt Bắc. Nơi có những con người chất phác, giản dị, son sắt, thủy chung, luôn một lòng hướng về người chiến sĩ cách mạng.
Tiếp theo là bốn câu thơ đầu là lời của những người nông dân ở chiến khu Việt Bắc xin bộ đội và cán bộ cách mạng trở về. Ở đó, nhà thơ Tố Hữu đã toan tính dụng ý khi sử dụng cách đối đáp xưng hô ""ta - ta", lối nói ám chỉ cùng với từ lóng, đặc biệt kết hợp với câu hỏi tu từ đã khiến người đọc thấy được tình cảm thiết tha, nồng nàn và thủy chung. sự gắn bó của đồng bào Việt Bắc với đồng bào miền Bắc.Người chiến sĩ, cán bộ cách mạng.Qua đó ta thấy được bản chất giản dị, tốt đẹp của người dân chiến khu Việt Bắc nơi đây.Mặc dù họ phải sống trong khó khăn, gian khổ, hiểm nguy. đồi núi, thiếu thốn về vật chất thì tình yêu thương của họ đối với những người chiến sĩ, cán bộ cách mạng chưa bao giờ thay đổi, luôn là một niềm khao khát da diết, mãnh liệt.
Ở đây nhà thơ đã miêu tả Cái hay của bài thơ không chỉ là lời của những người nông dân ở chiến khu Việt Bắc mà còn là lời đáp của những người chiến sĩ, cán bộ cách mạng đối với Việt Bắc:
“Tiếng ai tha thiết bên men rượu
Chán nản trong bước đi không ngừng nghỉ
Áo chàm chia ly
Nắm tay nhau chẳng biết nói gì”
Nhà thơ Tố Hữu đã dùng đại từ nhân xưng “ai” để nói lên tiếng vọng của lòng người Việt Bắc như muốn gọi các chiến sĩ, cán bộ cách mạng ở lại, không muốn họ phải ở lại. chia tay, hay đó cũng là nỗi lòng của người chiến sĩ, người cán bộ không muốn rời xa chiến khu Việt Bắc. Từ “chân thành” dường như làm cho tiếng gọi ấy càng vang xa, sâu lắng hơn, khiến người đọc cảm nhận rõ hơn tình cảm giữa con người, núi rừng, cội nguồn Việt Bắc và người chiến sĩ, cán bộ. Mạng lưới dường như cực kỳ sâu. Câu thơ tiếp theo sẽ làm cho nó rõ ràng hơn:
“Lang thang trong cái bụng bồn chồn để bước đi”
Tác giả đã thật tinh tế khi sử dụng các từ “tiếc thương”, “bồn chồn” để làm rõ tâm trạng của người ra đi. “Lo lắng” là một trạng thái khó tả thể hiện một sự lưu luyến, như vẫn còn băn khoăn về một điều gì đó rất sâu thẳm trong tình cảm của họ. Nó làm cho tâm trạng con người trở nên khó chịu, “bồn chồn” chỉ sự bồn chồn, khó chịu trong tâm trạng con người như hồi hộp, lo lắng về một điều gì đó. Tất cả những điều đó đã tạo nên tâm trạng của những người chiến sĩ, cán bộ cách mạng khi trở về thủ đô Hà Nội, khi trở về thủ đô Hà Nội vẫn mang trong mình một nỗi nhớ nhung, xao xuyến, buồn man mác. xen lẫn chút lo lắng trong tâm trạng của người chiến sĩ và cán bộ cách mạng. Qua đó người đọc cảm nhận được tình cảm của người cách mạng đối với đồng bào chiến khu Việt Bắc cũng tha thiết, sâu nặng như tình cảm mà đồng bào chiến khu Việt Bắc dành cho mình.
Hai câu thơ cuối là hình ảnh giàu cảm xúc nhất, là hình ảnh khi người ra đi và người ở lại phải chia tay, cuộc chia ly đầy nước mắt giữa người chiến sĩ cách mạng và đồng bào Việt Bắc:
“Áo chàm chia ly”
Nắm tay nhau chẳng biết nói gì”
“Áo chàm” là loại áo nâu, màu của người nông dân nghèo khó, gian khổ, quanh năm cần cù lao động để phục vụ cách mạng và đất nước. . Tác giả đã sử dụng hình ảnh hoán dụ “áo chàm” để chỉ những người dân ở chiến khu Việt Bắc. Người dân Việt Bắc tiễn các chiến sĩ cách mạng về nước trong tâm trạng bối rối, bâng khuâng, bâng khuâng. Từ “chia ly” dường như thể hiện sự chia tay ấy như thể sẽ không bao giờ gặp lại nhau nữa. Tưởng chừng như không muốn xa nhau, nhưng do hoàn cảnh lúc bấy giờ, họ buộc phải chia xa, xa nhau. Qua đó thể hiện nỗi nhớ nhung, khẳng định tình cảm sâu nặng của đồng bào chiến khu Việt Bắc với các chiến sĩ, cán bộ cách mạng. Tình cảm đó càng được nhà thơ Tố Hữu khẳng định rõ hơn ở câu thơ cuối:
“Nắm tay nhau chẳng biết nói gì”
Không phải giữa người đi và người ở lại không còn gì để nói, mà có quá nhiều điều muốn nói không thể nói hết và không biết nói câu nào trước, vì mười mấy năm chung sống. có quá nhiều kỷ niệm. , từ “biết nói gì” đã thể hiện điều đó. Mười lăm năm gắn bó và chăm sóc nhau, mười lăm năm cùng nhau cố gắng vượt qua biết bao khó khăn vất vả, khó khăn gian khổ, tình cảm của họ quá sâu đậm, có quá nhiều điều muốn nói mà sao không thể nói nên lời. rằng, nó cứ nghẹn lại trong cổ họng nhưng thứ thoát ra chỉ là những giọt nước mắt chia tay trong khung cảnh đầy cảm xúc, đầy kỷ niệm. Họ không nói được mà chỉ biết dùng hành động để nắm lấy tay nhau, chỉ một hành động rất nhỏ “nắm tay” thôi cũng khiến ta cảm nhận được tình yêu tha thiết, nhớ nhung giữa người đi và người ở. . Hành động “nắm tay” tuy chỉ là một hành động nhỏ, một hành động đơn giản nhưng nó đã thay lời yêu thương, thay lời yêu thương, tình cảm giữa họ dường như được truyền tải qua hành động đó. Đó cũng chính là sự bày tỏ tình cảm, tâm trạng chưa xa nhưng đã mang biết bao nỗi nhớ của người chiến sĩ cách mạng và đó cũng là tiếng nói của trái tim họ.
Tám câu thơ tuy ngắn nhưng lại chứa đựng biết bao ý nghĩa, biết bao cảm xúc khiến người đọc cũng có một cảm giác khó tả như hòa mình vào câu thơ. Qua đó cho ta cảm nhận sâu sắc về tình cảm sâu nặng, gắn bó sâu nặng giữa đồng bào ở chiến khu Việt Bắc với các chiến sĩ, cán bộ cách mạng trở về. Chúng ta có thể thấy tâm trạng hoài cổ của họ.
Nhà thơ Tố Hứa vô cùng thành công, ông không chỉ thành công về nội dung, câu thơ mà còn thành công về nghệ thuật. Với lối đối đáp, cách xưng hô mình - ta, điệp ngữ, điệp ngữ cùng với những hình ảnh hoán dụ, từ lóng, từ ngữ giản dị, đậm đà tính dân tộc, tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu.
Đoạn thơ giúp ta cảm nhận rõ tình cảm, tấm lòng, sự chân thành, yêu thương mà người dân Việt Bắc và người chiến sĩ, cán bộ cách mạng dành cho nhau. Tám câu thơ trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu mang đến cho người đọc nhiều cảm xúc và ấn tượng sâu sắc.
4. Phân tích 8 câu đầu bài Việt Bắc (Mẫu 3)
Sau khi quân và dân ta đã chiến đấu làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ oanh liệt, oanh liệt, chấn động thế giới, hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết vào tháng 10 năm 1954, các chiến sĩ cách mạng, cán bộ, các cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ. Chính phủ phải rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Nhân sự kiện lịch sử trọng đại đó, nhà thơ Tố Hữu đã sáng tác bài thơ Việt Bắc, bài thơ chủ yếu miêu tả cảnh chia tay với những tình cảm lưu luyến. Tình cảm đó được nhà thơ Tố Hữu thể hiện rõ nét nhất qua 8 câu thơ sau:
"Anh về rồi, em có nhớ anh không?
Mười lăm năm mặn nồng
Em về rồi anh có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn
Tiếng ai thiết tha trong men rượu
Trong bụng bực bội bước đi không yên
Áo chàm chia ly
Nắm tay nhau chẳng biết nói gì”
Đoạn thơ thể hiện rõ một nỗi nhớ da diết không thể kìm nén, trào ra từ ngòi bút của tác giả và tuôn trào thành từng dòng thơ. Ở đây, nhà thơ Tố Hữu đã nhấn mạnh nỗi nhớ của người ra đi và người ở lại bằng cách dùng đến bốn chữ “nhớ” trong một bài thơ tám câu ngắn gọn nhưng hẳn chứa đựng một điều gì đó rất thực. mãnh liệt và sâu sắc. Đây là nỗi nhớ quê hương cách mạng, là nỗi nhớ về nơi mà mình đã từng gắn bó bao khó khăn, gian khổ của người đã nặng lòng với mảnh đất thiêng liêng đầy kỷ niệm ấy, là nỗi nhớ của ân nghĩa năm xưa. tình cảm lẫn nhau.
Phân tích 8 câu đầu của bài thơ Việt Bắc để chúng ta thấy được tình cảm sâu nặng và nỗi nhớ da diết, thủy chung của những người chiến sĩ, cán bộ cách mạng với đồng bào ở chiến khu Việt Bắc.
Ngay từ đầu bài thơ, ta có thể thấy nhà thơ đã nhắc đến một nỗi nhớ về đạo lý Việt Nam, cảnh tiễn đưa bộ đội, cán bộ về với đồng bằng mang một tâm trạng bâng khuâng trong nỗi nhớ. Người ở lại hỏi người ra đi cũng chỉ một nỗi nhớ da diết, không nỡ rời xa và người ra đi trả lời bằng chính nỗi nhớ của mình. Tố Hữu đã thể hiện một cách xuất sắc nỗi nhớ quê hương cách mạng bằng những lời ca ngọt ngào, tha thiết, tương phản tình yêu nam nữ. Bài ca dao ấy thấm đượm tư tưởng đạo lý về tình yêu chung thủy, được thể hiện rõ qua bốn câu thơ sau:
"Anh về rồi, em có nhớ anh không?
Mười lăm năm mặn nồng
Em về rồi anh có nhớ không?
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn.
Nghe như ca dao nhưng đâu đó phảng phất âm hưởng thơ Kiều, hai câu đầu làm ta liên tưởng đến một câu thơ trong Truyện Kiều:
"Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu yêu thương"
Người ở chiến khu Việt Bắc hỏi các chiến sĩ, cán bộ cách mạng khi về Hà Nội có còn nhớ các anh không? Bạn có còn nhớ những kỷ niệm, tình cảm nồng nàn, say đắm gắn bó suốt mười lăm năm ấy không? Nhìn cây có nhớ núi rừng Việt Bắc, nhìn sông có nhớ cội không? Tuy là bốn câu thơ nhưng thực chất là hai câu hỏi tu từ. Lời nói của người ở nhưng thực chất là lời nói của người đi thể hiện đạo lý truyền thống Việt Nam, đó là bản chất tốt đẹp. Bốn câu thơ đó không chỉ để nói mà là để nhắc nhở mọi người, nhắc nhở chính mình vì đạo lý ấy thật thiêng liêng, chúng ta phải luôn biết giữ gìn và phát huy.
Khoảng thời gian trong “mười lăm năm ấy tha thiết mặn nồng” sâu nặng biết bao, cho thấy nỗi nhớ da diết, biết bao khi “trông cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Nhà thơ Tố Hữu đã sử dụng bốn chữ “ta”, có bốn chữ “nhớ” trong bốn câu thơ, nó hòa quyện với chữ “ta” làm cho đạo lí tình nghĩa Việt Nam trở thành sợi chỉ đỏ. xuyên suốt bài thơ Việt Bắc và nó cũng trở thành chủ đề lớn, chủ đề chính của tác phẩm.
Sau bốn câu thơ mở đầu là cảnh người đi kẻ ở tiễn biệt nhau, gợi cảm giác bâng khuâng trong nỗi nhớ của người dân chiến khu Việt Bắc với những người anh linh, những người cán bộ cách mạng:
“Tiếng ai tha thiết bên men rượu
Chán nản trong bước đi không ngừng nghỉ
Áo chàm chia ly
Nắm tay nhau chẳng biết nói gì”
Ở đây ta thấy có âm hưởng dịu dàng và rõ hơn là màu sắc đậm đà, chung thủy. Giữa người đi và người ở lại không phải là không có gì để nói với nhau, mà là có quá nhiều điều muốn nói, không biết bắt đầu từ đâu, vì họ đã thể hiện cho nhau bằng hành động. Những hành động tuy nhỏ nhưng chứa đựng biết bao tình cảm, được thể hiện bằng hành động với những bước chân không yên và những cái nắm tay lưu luyến. Mỗi bước chân của người đi mang theo biết bao nỗi nhớ của người ở lại. “Tiếng ai” đây không phải là câu nghi vấn, cũng không phải là đại từ phiếm chỉ mà là một cách nói, để diễn tả cảm giác “thầm thì trong bụng, bước không yên”. “Nỗi lòng” là vì “đi không nỡ”, mà “băn khoăn” là ở lại không được vì biết rằng chiến khu Việt Bắc nơi đây đã trở thành kỉ niệm, thành tình yêu, thành tâm hồn. :
"Nơi chúng tôi ở lại dẫn đến một kỳ nghỉ
Khi ta đi đất bỗng hoá tâm hồn"
Những từ như bâng khuâng, khắc khoải được nhà thơ Tố Hữu sử dụng rất tinh tế trong đoạn thơ này. Nó đã thể hiện một cách rõ nét nhất những cung bậc cảm xúc, tâm trạng và diễn biến cảm xúc của cuộc chia tay này để rồi hình ảnh tiếp theo hiện ra là hình ảnh chiếc áo chàm khắc họa con người Việt Nam:
“Áo chàm chia ly”
Nắm tay nhau chẳng biết nói gì”
Màu áo chàm ở đây là một hình ảnh rất ý nghĩa, đó là màu áo của người nông dân ở Việt Bắc, giản dị, mộc mạc, gian khổ nhưng đậm nét như lòng trung kiên của con người. đây. Màu áo chàm gợi cho cán bộ chiến sĩ nhiều kỉ niệm khó quên.
Câu thơ “nắm tay nhau nói gì hôm nay” nó mang một hành động, một giá trị biểu cảm lớn. “Nắm tay nhau” mà chẳng “biết nói gì” vì có quá nhiều nỗi niềm muốn nói, vì lòng chất chứa nhớ nhung chẳng biết nói gì trước, nói gì, nói gì. Những gì nên được giữ ẩn? Vì thế, không biết nói gì là tỏ tình nhiều. Nhà thơ Tố Hữu đã vô cùng xuất sắc khi sử dụng khổ thơ 3/3/2 như ngập ngừng, luyến tiếc, hoài niệm, cứ thế trào dâng. Cũng trong hoàn cảnh ấy, cảm xúc ấy gợi cho ta nhớ đến buổi lễ chia tay của người đi chinh phạt và người bị chinh phục trong tác phẩm “Người Chinh Phục”:
Xem thêm: lục tiên sinh đêm nay không ăn thịt
“Tiến một bước, giây dừng”.
Ta có thể thấy trong lời đáp của cuộc chia tay lịch sử ấy, tác giả Tố Hữu đã để người ở lại, người ở chiến khu Việt Bắc lên tiếng trước. Điều đó không những hợp lý, mà còn cần thiết cho sự phát triển trong toàn bài thơ.
Bằng cách sử dụng đại từ “anh - ta” và thể thơ lục bát tác giả Tố Hữu đã tái hiện lại cuộc chia tay lịch sử giữa quân dân chiến khu Việt Bắc với người chiến sĩ, cán bộ cách mạng với bộ đội Việt Nam. Biết bao kỉ niệm thân thương, thủy chung. Bài thơ Việt Bắc ra đời cũng là lời nhắc nhở về tình đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau, đời đời nhớ ơn nhau của dân tộc Việt Nam.
Bình luận