phân tích đại cáo bình ngô

tập làm văn Phân tích Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi lớp 10 gồm dàn ý phân tích Bình Ngô Đại Cáo và các bài văn mẫu chọn lọc cho: phân tích đoạn 1 đại cáo, phân tích đoạn 2, phân tích đoạn 3 bài văn tế . Hi vọng tài liệu này sẽ giúp các bạn học sinh phân tích Bình Ngô Đại Cáo hay nhất.
Phân tích Bình Ngô Đại Cáo

Phân tích dàn ý Bình Ngô Đại Cáo

Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi là áng sáng bất hủ trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Yêu cầu phân tích tác phẩm để làm sáng tỏ nhận định là một “sử thi khoa học”, tức là phân tích có định hướng chứ không phải phân tích chung chung. Vì vậy, cần phải làm rõ tính đầy đủ. bố cục, bố cục, thể loại, chủ đề của tác phẩm khi phân tích.

Bạn đang xem: phân tích đại cáo bình ngô

1. Hoàn cảnh sáng tác

Sau 10 năm kháng chiến gian khổ và ác liệt, ngày 1-1-1428, nhân dân ta dưới ngọn cờ của Lê Lợi đã đánh đuổi quân Minh xâm lược ra khỏi bờ cõi nước nhà. Sau chiến thắng, Lê Lợi tổ chức khao thưởng các tướng và chính thức lên ngôi hoàng đế. Nguyễn Trãi thay mặt nhà vua viết Bình Ngô Đại Cáo (Đại Cáo Bình Ngô) tuyên cáo trước toàn dân rằng công cuộc cứu nước, qua muôn vàn hiểm nguy đã giành được thắng lợi, từ đây dân tộc bước sang một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của hòa bình và thống nhất.

2. Tiêu đề

Tác phẩm của Nguyễn Trãi có tên là Đại cáo bình Ngô, nghĩa là cáo chung về việc dẹp giặc Ngô. Cái tên Bình Ngô Đại Cáo là cách đảo ngược tựa đề cho ngắn gọn, không hẳn là bản dịch. Chữ Ngô ở đây là cách Việt cổ gọi các thế lực phong kiến ​​phương bắc, mang sắc thái khinh thường. Trong tác phẩm, quân Ngô là giặc Minh.

3. Thể loại

– Bài văn được viết theo thể văn xuôi, thuộc thể văn chính luận, thường ra đời để thông báo những sự kiện trọng đại của đất nước hoặc sau cuộc kháng chiến trường kỳ. Đây là một tài liệu chính trị, không phải lúc nào cũng được sử dụng.
– Các kiểu câu trong văn biền ngẫu: Tứ tự, bát tự, nhị quan, cú bát, gối hạc.

4. Bố cục

– Phần 1 (từ đầu đến những chứng tích được ghi lại): nêu nguyên nhân của cuộc kháng chiến.
– Phần 2 (Vừa rồi… chịu được): Tố cáo tội ác giặc Minh
– Phần 3: tường thuật quá trình kháng chiến gồm 2 đoạn nhỏ:
+ Tiểu đoạn 1 (Ta đây... lấy ít thù nhiều): Tóm tắt những chiến công vang dội của nghĩa quân Lam Sơn.
– Phần 4 (Sắc tắc…ai cũng ngoan): Tuyên bố chấm dứt chiến tranh, mở ra kỷ nguyên hòa bình, khẳng định vị thế, vị thế của đất nước.

5. Phân tích

5.1. Nêu lập trường chính nghĩa của cuộc kháng chiến

- Tư tưởng nhân văn:

Công việc chính nghĩa của mọi người là được sống trong hòa bình
Quân phạt trước lo bạo động

Đập tan lý lẽ của quân Minh
Cuộc đấu tranh vì dân của tôi -> nội dung khác, cụ thể hơn (liên hệ)
Giải thích -> đấu tranh trừ ách bạo ngược -> quân Minh, tay sai.
=> Quan niệm nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi không còn là quan niệm đạo đức hạn hẹp mà là lý tưởng xã hội phải lo cho nhân dân được sống hạnh phúc, bình yên.

- Từ đường lối độc lập của dân tộc.
+ Biểu hiện: tên nước, nền văn hóa riêng, lãnh thổ, phong tục tập quán, nền chính trị, nhân tài.
=> Quan niệm khá đầy đủ về đất nước (so với các tác phẩm trước Nam Quốc Sơn Hà, Hịch Tướng Sĩ).
+ Giọng điệu: Vui tươi, tự hào.
+ Cách viết: câu “Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần... Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên..” -> Bình đẳng, ngang hàng (đế).
=> Cuộc chiến của tôi là chính đáng.

5.2.Tố cáo tội ác của quân Minh xâm lược

– Danh sách hàng loạt:
Khủng bố (giết sống, chôn sống), bóc lột (thuế: sưu cao thuế nặng; phú: các bà xây ma, đắp đập…; tế: ra suối mò ngọc, cát nấu rượu, bắt chim). trả, bẫy, bẫy hươu đen...; phá hoại sản xuất: tiêu diệt toàn bộ côn trùng và cây trồng; hủy diệt cuộc đời: nhún vai thay cho những góa phụ khốn khổ...
– Tội ác man rợ nhất của quân Minh xâm lược được diễn tả trong câu:

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Hãy chôn con đỏ trong hố thảm họa.

Đây là hình ảnh vừa cụ thể, vừa khái quát như một bản cáo trạng, buộc tội.
=> Khắc họa tội ác dã man của kẻ thù, làm rõ sự dã man của chúng. Đó cũng chính là nguyên nhân khiến nhân dân ta phải kháng chiến.

5.3 Tổng kết cuộc kháng chiến

5.3.1 Buổi đầu dựng cờ khởi nghĩa.

– Hình tượng trung tâm là người anh hùng Lê Lợi (Ta đây).
+ Tập trung miêu tả nội tâm: cân nhắc, chạnh lòng, nhức đầu, nằm gai nếm mật, giận hờn, suy nghĩ, đắn đo, trằn trọc.
=> Chân dung tâm trạng Lê Lợi: yêu nước, căm thù giặc, quyết tâm cao, nghiền ngẫm, chí lớn, nhìn xa trông rộng.
+ Hình ảnh Lê Lợi có tình cảm của Nguyễn Trãi, của toàn dân -> chân thực, xúc động.

- Khó khăn buổi đầu kháng chiến:
+ Sự chênh lệch về sức mạnh: ta yếu, địch mạnh.
Thiếu thốn vật chất.
+ Nhân tài hiếm có.

- Làm thế nào tôi có thể vượt qua nó?
+ Thiện chí và nhân hậu.
+ Có chiến lược, chiến thuật đúng đắn, đánh bất ngờ, đánh nhanh.
+ Dựa vào sức dân.
+ Lấy nhân nghĩa làm căn bản.
- Giọng điệu: trầm lắng, suy tư.

5.3.2.Chiến lược chiến thắng

– Mô tả trận chiến trong 3 bước
+ Phản đòn:
Bồ Đằng - Trà Lân -> bất ngờ ; Câu văn ngắn gọn, chắc chắn, hình ảnh bất ngờ: Sấm chớp đùng đùng, Trúc chẻ tro bay.
Kẻ thù: sợ hãi.
+ Tấn công:
Tây Kinh, Đông Đô -> nơi đầu não giặc ngày xưa.
Trận chiến ác liệt -> hình ảnh máu chảy thành sông, xác người chất đống, quân thù thất bại thảm hại.
Âm mưu trừng trị tâm công dùng ngọn cờ chính nghĩa, dùng mưu mà thu phục lòng người.
+ Trận cầu viện binh:
Giặc tiến công ráo riết (câu dài) bằng hai mũi tiến công từ Khâu Ôn và Vân Nam.
Tà: đánh bất ngờ, dứt khoát: chặt, tuyệt.
Nhịp điệu bị phá vỡ bất ngờ.
Liệt kê -> chiến thắng áp đảo.
Sự tương phản giữa ta và địch.
=> Khắc họa sự thất bại thảm hại của quân thù và sức mạnh, khí thế của quân ta.
Giọng điệu: sảng khoái, hào hùng khi khắc họa tư thế của người chiến thắng.

- Thái độ nhân đạo, yêu chuộng hòa bình:
Giọng văn chậm rãi, nhẹ nhàng.
Tha giặc, cấp ngựa thuyền về nước.
Tôi muốn mọi người nghỉ ngơi.
Tính lâu dài.

5.4 Tuyên bố Hòa bình

– Giọng điệu hả hê, sung sướng tin tưởng thái bình bền lâu (Giang sơn từ đó đổi mới… Nghìn nhục rửa sạch).
– Hàng loạt từ ngữ miêu tả vũ trụ -> cảm hứng độc lập dân tộc được nêu lên gắn liền với cảm hứng vũ trụ bao la vĩnh cửu. Mặt khác, nó thể hiện cảm giác thiêng liêng và tôn kính lịch sử.

6. Chủ đề

Bình Ngô Đại Cáo là bản tổng kết cuộc kháng chiến vĩ đại, nêu bật niềm tự hào, niềm vui vô bờ bến trước chiến thắng của chính nghĩa, ca ngợi tài năng lãnh đạo và khí phách hào hùng của dân tộc.

7. Kết luận

– Bình Ngô đại cáo tràn đầy cảm hứng trữ tình và đậm chất anh hùng hiếm có nên sẽ mãi là một câu chuyện cổ tích hào hùng.
– Báo cáo thể hiện khả năng kết cấu tác phẩm nghệ thuật ở mức độ hoàn chỉnh, khả năng tạo hình sắc nét, biến hóa hấp dẫn, phù hợp với cảm hứng chủ đạo của tác phẩm.

Phân tích bài văn mẫu Bình Ngô Đại Cáo

Phân tích Bình Ngô Đại Cáo – bài 1

Phân tích Bình Ngô Đại Cáo
Vua Lê Thánh Tông từng đề cao: Ức Trai, tâm quang cao, khuê tảo. Trong những năm qua, Nguyễn Trãi được nhớ đến và đánh giá cao với tư cách là nhà văn, nhà thơ lớn của Việt Nam, nhà tư tưởng, nhà chính trị vĩ đại của dân tộc Việt Nam thế kỷ XV. Các tác phẩm là sự kết hợp hài hòa giữa tư tưởng chính nghĩa, yêu nước với lập luận sắc bén, mạch lạc, văn phong hùng hồn, giàu sức thuyết phục, với tư tưởng lấy dân làm gốc. Một trong những tác phẩm thể hiện rõ điều này của ông là tác phẩm “Bình Ngô Đại Cáo”.

Tác phẩm ra đời khi Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế lấy niên hiệu là Thuận Thiên (có lòng trời) và sai Nguyễn Trãi soạn chiếu cáo toàn dân rằng cuộc kháng chiến chống quân Minh đã thắng lợi vẻ vang và đất nước đã chiến thắng. Chúng ta chuyển sang giai đoạn xây dựng hòa bình. Bình Ngô đại cáo là một bản chính luận tổng kết chặt chẽ, cô đọng - về khởi nghĩa Lam Sơn, dựa trên tư tưởng yêu nước nồng nàn và nhận thức mới, sâu sắc của nhân dân và dân tộc. Bao trùm phóng sự là niềm tự hào vô bờ bến về thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến và khí phách của dân tộc Việt Nam.

Ngay từ đầu, Nguyễn Trãi đã khẳng định cuộc đấu tranh này là vì lợi ích của nhân dân:

Từng nghe nói: Nhân nghĩa cốt ở yên dân.
Quân phạt trước lo trừ bạo.

Nguyễn Trãi viết từ tận đáy lòng, không phải chỉ nghe kể suông. Chính ông đã coi việc làm nhân nghĩa của mọi người là mục tiêu cao nhất của cuộc đời mình. Với đạo đức Nho giáo xưa, nhân nghĩa là điều mà mỗi con người phải có, được thể hiện bằng hành vi. đối xử tốt với người khác. Ở Nguyễn Trãi, lòng nhân nghĩa đã được nhân lên một tầm cao hơn rất nhiều, còn mở rộng hơn nữa: đó là lo cho dân, giúp dân - nhân dân ở đây nói với một nghĩa bao trùm khắp thiên hạ. Tác giả giới thiệu “yên dân” như để khẳng định nguyên tắc “lấy dân làm gốc” là quy luật tất yếu của mọi thời đại - dân là cốt lõi, là tài sản, là sức mạnh, là nguyên khí của một quốc gia. Nhân nghĩa cũng là “trừ bạo”, bạo ngược là quân Minh, ác nhân chuyên đàn áp nhân dân. Có thể thấy, Nguyễn Trãi coi “dân” là trụ cột của một nước, người chèo cũng là dân và người lật thuyền cũng là dân. Ý tưởng này đơn giản nhưng có ý nghĩa sâu xa. Trong các cuộc kháng chiến, nhân dân đóng vai trò quan trọng quyết định thắng bại của cuộc kháng chiến đó. Nếu dân mạnh, lòng dân yên thì nhất định sẽ đánh tan mọi sự tàn bạo của quân thù.

Quan niệm nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi không còn là quan niệm đạo đức hạn hẹp mà là lý tưởng xã hội. Điều quan trọng hơn là ở đây, Nguyễn Trãi đã nâng lý tưởng ấy, tình cảm ấy lên thành chân lý. Ông không nói về con người một cách chung chung mà chỉ bằng một hai câu ngắn gọn, tác giả đã đi vào khẳng định cái nhân cơ bản nhất, cốt lõi nhất, giá trị nhất. Không chỉ vậy, nhân nghĩa còn gắn với bảo vệ chủ quyền quốc gia, khẳng định chủ quyền quốc gia, tinh thần độc lập dân tộc:

“Như nước Đại Việt ta trước
Nó được gọi là một nền văn minh trong một thời gian dài
Núi non, sông ngòi, biên giới đều bị chia cắt
Nam Bắc phong tục cũng khác.”
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời dựng nền độc lập
Đến Hán, Đường, Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Dù mạnh mẽ hay yếu đuối theo thời gian,
Nhưng đời nào cũng đáng tự hào.

Khẳng định chân lý này, Nguyễn Trãi đã đưa ra một quan niệm được coi là đầy đủ nhất lúc bấy giờ về những yếu tố hình thành một quốc gia độc lập. Nếu như 400 năm trước, trong Nam quốc sơn hà, Lý Thường Kiệt chỉ xác định hai yếu tố lãnh thổ và chủ quyền trên cơ sở ý thức dân tộc và độc lập dân tộc thì trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã bổ sung thêm bốn yếu tố, đó là văn hóa, lịch sử. , và phong tục. thói quen và tài năng. Để làm nổi bật tư thế độc lập tự chủ của dân tộc, Nguyễn Trãi đã sử dụng cách nói sóng đôi. Đại Việt và Trung Hoa đã tồn tại song song với nhau từ bao đời nay. Nền “văn hiến” của miền Nam do chính người dân Việt Nam gây dựng, trải qua những thăng trầm, sự tàn khốc và mất mát của chiến tranh. Đất đai, núi sông, đồng ruộng, biển cả được phân chia rõ ràng. Phong tục tập quán cũng như văn hóa của mỗi miền Bắc, Nam cũng khác nhau. Ở đây, Nguyễn Trãi nhấn mạnh rằng cả Trung Quốc và Đại Việt đều có những đặc điểm riêng không thể nhầm lẫn, không thể thay đổi hay xóa bỏ. Cùng với đó là mỗi triều đại riêng biệt để khẳng định chủ quyền. Qua đoạn thơ, Nguyễn Trãi đã đặt các triều đại “Triệu, Đinh, Lý, Trần” của chúng ta ngang hàng với “Hán, Đường, Tống, Nguyên” của Trung Quốc, điều đó cho chúng ta thấy, nếu không có lòng tự tôn dân tộc mãnh liệt thì không thể có một sự so sánh vô cùng đẹp đẽ và tinh tế như vậy. Cuối cùng chính là nhân tài, con người cũng là một yếu tố quan trọng để khẳng định sự độc lập của chính mình. Tuy thời thế “mạnh yếu có lúc khác nhau” nhưng anh hùng thời nào cũng có, câu thơ như một lời cảnh báo cho những ai, nước nào muốn thôn tính Đại Việt.

Để tăng thêm sức thuyết phục, Nguyễn Trãi đã dùng nhiều từ chỉ sự hiển nhiên vốn có khi nêu sự tồn tại của Đại Việt: “từ trước”, “đã lâu”, “chia cắt”. "cũng khác". Thành công nhất về nghệ thuật của đoạn một - cũng như của đoạn văn xuôi - là thể văn xuôi được nhà thơ khai thác triệt để. Khẳng định tính độc lập và ý thức hệ của mình, ông dẫn chứng các cuộc chiến tranh với phương Bắc trước đây trong lịch sử đều thất bại:

Để có thể:

Lưu Công tham lam thất bại
Triệu Tiết thích chết cũng phải chết
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng diệt Ô Mã
Điều cũ để xem xét
Bằng chứng còn ghi.

Trong bài thơ này, Nguyễn Trãi đã cho ta thấy những chiến công hiển hách của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, giữ gìn nền tự do của Tổ quốc. Cách dẫn chứng rõ ràng, cụ thể với lời lẽ chắc nịch, hào hùng, thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Nội dung được thể hiện bằng những thuật ngữ rất giống nhau. Tuy nhiên, nếu để ý sẽ thấy cán cân cân đối, tác giả dường như muốn đặt nặng hơn Đại Việt với từng chiến công hiển hách của quân dân ta: “Hàm Tử”, “Bạch Đằng”,.. trong thêm vào đó là sự khinh thường, căm hận trước sự bại trận của quân xâm lược không biết tự lượng sức mình: “Lưu Cung.. tham công”, “Triệu Tiết.. thích lớn”, Toa Đô, Ô Mã, tất cả phải chết thảm. Đoạn thơ một lần nữa khẳng định rằng: Nước Đại Việt là một nước độc lập, tự chủ, có nhân tài, tướng giỏi không thua kém nước nào. Tất cả những trang sử vẻ vang và hào hùng đó đã được sử sách của chúng ta ghi chép cẩn thận, không thể phủ nhận và không ai có thể thay đổi được.

Xuyên suốt toàn bài Đại cáo bình Ngô, ngòi bút của Nguyễn Trãi thể hiện rõ lòng ưu dân. Vì thương dân, ông xót xa trước những thảm cảnh mà bọn cuồng Minh lợi dụng vì bọn gian ác vẫn bán nước cầu vinh. Họ có:

Họ Hồ là rắc rối
Để lòng dân phẫn uất trong nước
Quân Minh cuồng nhân cơ hội gây họa
Ác nhân cũng bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Chôn con đỏ trong hố thảm họa
Dối trời lừa người muôn phương
Gây thù chuốc oán mấy chục năm
Đánh bại nhân loại và phá hủy thiên đường và trái đất.
Thuế nặng núi sạch không lầy.
Người dân bị bắt xuống biển mò ngọc trai, chán thay cho cá mập.
Những kẻ bị đưa vào núi cát tìm vàng, khốn thay chốn rừng sâu nước độc.
Vớt nông sản, bắt sả chim, nơi ẩn nấp giăng lưới.
Quấy rầy người, giăng bẫy hươu đen, nơi cạm bẫy.
Làm hại cả côn trùng và thực vật,
Chó con thay cho góa phụ khốn khổ.
Thằng há mồm, thằng nhe răng, máu tanh mỡ không ngán,
Nay xây nhà, mai xây nền, chân tay nào phục vụ cho vừa?
Nặng nề những phen nổi tiếng
Bỏ cả nghề nông.
Tội nghiệp tre Nam Sơn không ghi hết tội,
Bẩn thay, nước Đông Hải rửa không sạch mùi!
Vì sao trời đất dung tha? Ai bảo người dân chịu được?

Lợi dụng tình hình chính trị rối ren, giặc Minh cấu kết với bọn Việt gian bán nước điên cuồng cướp nước ta, xâm phạm chủ quyền quốc gia, đồng thời gây nhiều tội ác ghê tởm:

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Chôn con đỏ trong hố thảm họa

Đọc lại sử sách cũ, ta thấy hai câu trên không phải là nói ngoa chút nào mà là sự thật: Giác Minh vô cùng tàn bạo, chúng thường moi ruột người treo lên cây, nấu xác lấy mỡ. đốt đèn, thường gây cười bằng cách nướng thịt những người vô tội. Thêm vào đó, giặc thực hiện chế độ sưu cao thuế nặng để cướp bóc của cải (Bị bắt xuống biển mò ngọc trai, mỏi thay cá mập - kẻ bị đưa vào núi mò vàng, tội nghiệp con người). rừng sâu độc). Lòng tham vô đáy, chúng đã gây bao đau thương cho nhân dân ta lúc bấy giờ, sản xuất đình trệ (tán tán làm ruộng, đánh cá), đời sống nhân dân bị tiêu diệt không còn gì (tiêu diệt cả giống nòi). côn trùng, cây cỏ), đẩy nhân dân vào tình cảnh thê lương, lầm than (nhỏ thay cho quả phụ)… Tội ác của giặc Minh chồng chất, dù có chặt cả tre rừng, làm trời cũng không thể ghi hết. chết. Đất không dung, thần cũng không người dung. Ông đã vạch trần bản chất thật của kẻ xâm lược bằng những câu văn đầy phẫn nộ, bi thảm. Đau thương và căm thù, người dân Đại Việt đã cùng nhau đứng lên.

Tôi ở đây:

Núi Lam Sơn khơi nghĩa
Nơi hoang dã để trú ẩn
Hãy nghĩ về kẻ thù lớn, đội trời chung
Hận thù không thề chung sống
Đau lòng, nhức nhối mười năm
Nếm mật nằm gai, có khi một hai sớm tối.
Giận đến quên ăn, thao lược thao lược đã tinh luyện,
Suy nghĩ đến bây giờ, lý do được xem xét cẩn thận hơn.
Lăn qua lăn lại trong giấc mơ,
Chỉ thắc mắc một điều
Ngay khi lá cờ được kéo lên,
Đó là khi kẻ thù mạnh mẽ.

Tập trung miêu tả hình ảnh Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã khái quát đầy đủ những phẩm chất tiêu biểu nhất của các sĩ phu yêu nước thế kỉ XV. Đặc điểm của những con người yêu nước trong văn học giai đoạn này thường có những đặc điểm sau: Xuất thân bình thường; Buổi đầu còn nhiều khó khăn, nhưng luôn có tinh thần vượt khó, kiên trì; Biết tập hợp, đoàn kết toàn dân; Biết sử dụng chiến lược và chiến thuật tài tình; Biết giương cao ngọn cờ nhân nghĩa trong mọi hoạt động. Có thể nói, Lê Lợi là hình tượng tiêu biểu của những người yêu nước dám xả thân đứng lên chống giặc ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc.

Một lần nữa bởi vì:

Tuấn kiệt như sao mai,
Nhân tài như lá mùa thu,
Cuộc chạy trốn thiếu người trợ giúp,
Nơi cái ác hiếm khi được thảo luận,
Lòng cứu nước, vẫn hướng về phương Đông,
Cỗ xe nhẹ nhàng, thường đắc ý, dành cho ngang trái.

Để có thể:

Nhìn người, người càng vắng, như nhìn đại dương.
Tự mình phải dốc lòng, vội vàng cứu người chết đuối.
Phần vì giận quân thù,
Một phần vì giao thông đường thủy khó khăn,
Khi Linh Sơn hết lương được vài tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không có đội.
Thượng đế cố gắng cho số phận tuyệt vời
Chúng tôi cố gắng vượt qua khó khăn.
Người dân ở trong bốn ngôi nhà, giơ cao và phất cờ
Tướng có tấm lòng phụ tử, pha nước sông với chén rượu ngọt.
Một trận chiến xuất sắc, chống lại kẻ mạnh chống lại kẻ yếu,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.

Tinh thần và quyết tâm cao như núi, nhưng buổi đầu khởi nghĩa đầy gian nan: quân địch thì mạnh mà ta ít người, nhân tài như sao mai lá rụng. mùa thu. Có những lúc bị vây, lương thực cạn kiệt, quân ít con (lúc Linh Sơn, lương cạn mấy tuần - lúc Khôi Huyện quân không có đồng đội)... Tuy nhiên, nhờ tính kiên trì, quyết tâm vượt khó của ông , nhờ có sự đoàn kết toàn dân và có chiến lược, cách đánh đúng đắn..., ta đã từng bước xây dựng được lực lượng hùng hậu dẫn đến thắng lợi.

Đoạn tiếp theo, Nguyễn Trãi tập trung vào quá trình chiến thắng. Điều đáng chú ý là, trên thực tế, từ khi dựng cờ khởi nghĩa cho đến khi giành thắng lợi, nghĩa quân Lam Sơn đã đánh thắng nhiều trận. Nhưng ở đây, Nguyễn Trãi chỉ tập trung vào một số trận tiêu biểu nhất của từng thời kỳ. Ở phần mở đầu của trận đánh lớn, tác giả đã nhắc đến hai trận đánh ác liệt diễn ra ở Bồ Đằng và Trà Lân. Quân địch hoàn toàn bị bất ngờ, thua chạy tán loạn; Quân đội của chúng tôi đã giành chiến thắng một cách nhanh chóng. Ở đây, Nguyễn Trãi đã miêu tả rất ngắn gọn nhưng vẫn nêu bật được cái cốt lõi của hai trận đánh, đó là sự bất ngờ trong việc dừng quân. Vì thế, quân địch hoang mang, hoang mang, quân ta càng đánh mạnh hơn:

Tinh thần thật hung dữ
Quân Thanh càng mạnh
Trần Trí, Sơn Thọ nghe chút mà hết hồn,
Lý An và Phương Chính nín thở chạy thoát thân.

Chặng thứ hai, quân ta mở chiến dịch Thanh Nghệ tiến ra Bắc. Nguyễn Trãi đã nhắc đến hai trận đánh có ý nghĩa chiến lược và diễn ra vô cùng ác liệt, đó là trận Ninh Kiều và trận Tốt Động. Giặc điều động tướng sĩ sống chết cố thủ, ta quyết đánh quyết thắng; do đó, trận chiến trở nên vô cùng căng thẳng. Bằng cách phóng đại, Nguyễn Trãi đã khiến người đọc có ấn tượng sâu sắc về sự khốc liệt của trận chiến, sự thất bại nhục nhã của quân Minh xâm lược:

Ninh Kiều máu thành sông, tanh trôi ngàn dặm
Xác Đồng Tốt đầy nội, dơ dáy ngàn năm.
Tin địch: Trần Hiệp phải giấu đầu
Kẻ thù: Lý Lương cũng chết.

Trong giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh, Nguyễn Trãi tập trung viết về chiến dịch Chi Lăng - Xương Giang. Đây là bản hùng ca vang dội nhất của cuộc kháng chiến trường kỳ.

Tháng 9 Đinh Mùi, Liễu Thăng kéo quân từ Khau Ôn,
Tháng 10 năm ấy, Mộc Thạch chia đường từ Vân Nam tiến lên.

Nhưng tôi đã được chăm sóc tốt. Hai gọng kềm của địch bị bẻ gãy liên tiếp:

Trước điều ương ngạnh, hãy chém mũi tên gió.
Bèn sai tướng chặn đường, cắt nguồn lương thực.

Sau đó là những chiến thắng áp đảo. Lời văn háo hức như hơi thở của người viết, mạch văn dồn dập như cố theo kịp những bước hành quân thần tốc và những đòn tấn công dồn dập của nghĩa quân:

Ngày 18, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,
Ngày thứ hai mươi trận Mã Yên, Liễu Thăng mất đầu.
Ngày thứ hai mươi lăm, Lương Minh bá bị bại trận, chết.
Vào ngày thứ hai mươi tám, Thượng thư Lý Khánh và người kế nhiệm của ông ta đã tự sát.

Tiếp theo, báo cáo chuyển sang một cách tiếp cận cụ thể đối với hiện trường trận chiến. Câu văn được đúc kết lại, súc tích, đầy hình ảnh phóng đại trái với sức mạnh to lớn và khí thế áp đảo của quân ta:

Anh hùng tốt là kén chọn và dũng cảm,
Cái này chọn răng nanh,
Đá mài gươm, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn,
Đánh một trận sạch sẽ bất ngờ
Chiến đấu hai lần, phân tán những con chim

Hình ảnh quân đội ta lúc này hiện ra với lực lượng, ý chí quật cường, tầm vóc oai hùng giữa vũ trụ. Khi đánh giặc, càng đánh càng hăng hái, hừng hực khí thế đất trời vì trong lòng lúc nào cũng hừng hực lòng yêu nước. Chính vì vậy quân ta đã đánh thắng quân thù. Lúc này, quân địch hiện ra trong bộ dạng đáng thương, thảm hại:

Gió cuốn lá khô,
Tổ kiến ​​sập, đê vỡ.

Xem thêm: Tại sao nên sở hữu đôi giày Sneaker Nike chính hãng?

Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin sống,
Thần múa không giết xác trời ta mở đường hiến tế,
Mã Kỳ là Phương Chính cho năm trăm chiếc thuyền đến hồ nước vẫn bồng bềnh linh khí.
Vương Thông, Mã Anh, phát mấy vạn ngựa về nước mà tim đập chân run.

Những “tên” không giấu được sự hèn hạ, nhục nhã: Trần Trí, Sơn Thọ, Lý An, Phương Chính, Vương Thông, Mã Anh… Tất cả tạo nên một cảnh chiến trường hỗn loạn, nhưng giành thế chủ động. hoàn toàn về mặt chính trị. Quân giặc hỗn loạn, sợ hãi, từng tên trông vô cùng thảm hại. Nhưng dân tộc ta vốn yêu hòa bình và không thích cảnh quân phiệt:

Bọn họ tham sống sợ chết, nhưng thật sự hòa thuận
Thà thu hết quân, để dân yên.

Quân giặc “tham sống sợ chết”, ta không hết tình. Quan điểm của Nguyễn Trãi “chỉ có chí cường bạo” được thể hiện ở đây. Theo ông, binh lửa khói lửa chỉ là chuyện bất đắc dĩ, vì phải trả giá bằng mạng sống nên ông luôn bày mưu sát phạt, dùng luận chính trị với hơn 10 binh sĩ để tránh đổ máu và thu phục lòng người. Với những bại tướng của giặc, ông tha bổng và giúp trở về nước, không giết hại: ở trong lòng trời, ta mở đường hiếu thảo để giữ hòa bình. Ta thấy Nguyễn Trãi quả là một người nhân hậu, có tấm lòng nhân ái tuyệt vời, cao thượng biết bao!

Báo cáo kết thúc. Câu văn chuyển sang nhịp điệu thong thả, dàn trải, trang nghiêm. Giọng nói vui vẻ hòa bình

Quy luật từ đây bền vững
Từ đây giang sơn đổi mới.

Nhưng cuộc vui không ồn ào. Tác giả hiểu hơn ai hết cái giá đắt của chiến thắng, lòng biết ơn sâu sắc của đồng bào và các bậc tiên tổ thiêng liêng đã phù hộ độ trì. Từ đây dân tộc bước sang một kỷ nguyên mới. Độc lập, tự do, hòa bình đã về với mỗi nước. Đoạn văn dựa trên những quy luật tất yếu của tự nhiên mà khái quát lên những điều cần thiết trong xã hội. Xã hội phải đối mặt với những “đổi thay” nhưng cũng giống như vũ trụ “hư rồi hư”, như mặt trời và mặt trăng “hối hận rồi sáng tỏ”. Và dường như chỉ khi đó chúng ta mới hiểu hết ý nghĩa của hình ảnh đất nước trong gian khổ, mới hiểu thế nào là “mãi mãi một nền hòa bình vững chắc”. Đất nước đã được hòa bình, hình ảnh đất nước trong tương lai vững bền, tươi sáng: “Biển yên bốn phương, soi khắp nơi một ánh sáng mới”.

Bản tường trình cũng được viết với nghệ thuật đặc sắc: văn xuôi hùng tráng, hơi thơ như vũ bão, như sóng lớn, lời sắc như dao chém thẳng vào quân xâm lược, tương phản kết hợp với kết cấu. Cấu trúc câu thuộc kiểu phú cận tạo nhịp điệu mạnh mẽ thể hiện hết những cảm xúc rạo rực trong huyết quản của tác giả ngay trong những ngày nghĩa quân Lam Sơn thắng trận. Phóng sự đã ghi lại một thời kỳ đau thương nhưng vẻ vang của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống quân Minh với những chiến thuật hết sức đúng đắn, sáng tạo đã làm nên những trận đánh kinh thiên động địa khiến quân thù phải điêu đứng. khủng bố, đẩy họ đến thất bại hoàn toàn và nhục nhã. “Bình Ngô Đại Cáo” xứng đáng là “Thiên cổ hùng văn”, là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của nước nhà.

Tóm lại, tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo tràn đầy cảm hứng trữ tình và mang đậm chất anh hùng ca hiếm có. Vì vậy, đoạn trích có giá trị rất sâu sắc về nước ta, khẳng định dân tộc ta có tinh thần nhân nghĩa, có tinh thần độc lập tự chủ. Bài thơ giúp chúng ta hiểu về chủ quyền lãnh thổ, độc lập dân tộc cũng như lịch sử đấu tranh hào hùng của ông cha ta, từ đó bồi dưỡng lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, quyết tâm xây dựng, bảo vệ và củng cố độc lập, chủ quyền của đất nước.

Phân tích báo cáo lớn đoạn 1

Phân tích Bình Ngô Đại Cáo
Bình Ngô Đại Cáo là tác phẩm tiêu biểu nhất của Nguyễn Trãi, nhà chính trị, nhà quân sự và tất nhiên là nhà thơ, nhà văn kiệt xuất của nhân dân. Bình Ngô Đại Cáo là bản cáo trạng của Nguyễn Trãi thay mặt vua Lê Thị Tổ để thông báo rộng rãi với nhân dân về quá trình kháng chiến và thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Thông qua bài cáo, Nguyễn Trãi còn nêu lên triết lý nhân nghĩa cũng như tự hào định nghĩa về đất nước.

Nhân nghĩa là nội dung Nho giáo nói về tình yêu thương, giúp đỡ giữa con người với nhau. Tuy nhiên, với Nguyễn Trãi, lòng nhân nghĩa đã nâng lên 1 bậc. Nhân nghĩa đối với Người là việc làm, là hành động cụ thể

Cốt lõi của nhân loại là được yên nghỉ
Quân tử trừng trị trước lo trừ bạo

Thông thường trong xã hội phong kiến, quân đội được xây dựng để bảo vệ chế độ, bảo vệ nhà vua. Nhưng ở đây, Nguyễn Trãi cho rằng quân tử phải trừ bạo, làm cho dân yên vui.

Nguyễn Trãi dùng rượu mới rót vào chum Nho cũ. Nhân nghĩa là một khái niệm phải được nghĩ đến đầu tiên nếu bạn muốn thống trị thế giới

Đất nước Việt Nam có truyền thống nhân ái, nhân hậu. Đó là nội dung mà Nguyễn Trãi muốn đề cập ở những câu cuối của phần 1 bài cáo. Nguyễn Trãi cất cao tiếng gọi đất nước

Giống như đất nước vĩ đại của chúng ta trước đây
Nó được gọi là một nền văn minh trong một thời gian dài

Ta nhận thấy ở đây một giọng điệu sảng khoái, hồ hởi, có lẽ khi viết hai dòng này, tất cả tình cảm yêu nước của ông dồn lại trong lòng và từ đó bộc phát ra ngoài.

Giống như đất nước vĩ đại của chúng ta trước đây

Nước Đại Việt có từ trước nên hình thành nền văn hiến lâu đời. Văn hóa Đại Việt dù ít nhiều chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Bắc nhưng vẫn đậm đà bản sắc dân tộc

Nếu như Lý Thường Kiệt từng nói sông núi nước Nam đều do trời định thì Nguyễn Trãi lại nêu lên một nội dung khái quát hơn.

Núi sống lãnh thổ bị chia cắt
Phong tục 2 miền nam bắc cũng khác nhau

Nam Bắc đất đai đã có ranh giới phân chia rõ ràng. Nó có thể bị chia rẽ bởi Thiên Chúa, nhưng nó cũng có thể bị chia rẽ bởi con người. Nhưng chúng ta có thể hiểu rằng, sau hơn nghìn năm đấu tranh gian khổ, trải qua biết bao gian khổ, ông cha ta đã dựng nước. Vâng, chính dân tộc Việt Nam đã đứng lên đấu tranh, đã nằm xuống, quyết tử cho Tổ quốc, xả thân để dựng nước. Giang san đã chia, phong tục tập quán cũng khác. Người miền nam khác người miền bắc, ngôn ngữ cũng khác. Nhưng điểm giống nhau là cả hai quốc gia đều tồn tại song song các triều đại

Từ một triệu định lý, nhiều thế hệ đã gây ra sự độc lập
Cùng Hán Đường Tông Nguyên mỗi bên xưng đế một phương

Đây là một dòng văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, từ lâu các đế vương Trung Hoa đã coi nước ta là một bộ phận, một quận huyện nhỏ của họ. mà nay Nguyễn Trãi đã khẳng định chủ quyền của nước ta là một sự sỉ nhục đối với kẻ thù. Tuy có lúc yếu, lúc mạnh, nhưng chí khí nước Nam không thiếu, nào là Đinh Đồng, Lý Thường Kiệt và xa hơn nữa là Ngoa Khánh với chiến thắng Bạch Đằng năm 938 trong kỷ nguyên nước nhà độc lập.

Ở phần 1 của bài cáo, Nguyễn Trãi không chỉ nêu lên triết lí nhân nghĩa một cách sâu sắc mà ông còn xác định đất nước với lòng tự hào dân tộc. Đứng trên lập trường của dân tộc, ông khẳng định về đất nước về một niềm tự hào dân tộc, ông khẳng định đất nước ta có truyền thống nhân nghĩa nên mới trường tồn và đánh bại mọi âm mưu xâm lược của kẻ thù.

Mỗi lần đọc câu chuyện, trong tôi tràn ngập niềm tự hào là người Việt Nam, là con cháu Nguyễn Trãi. Và nghĩ về cuộc đời của một vị anh hùng dân tộc, tôi không khỏi nhói lòng xót xa. Và rồi chúng ta có thể cất cao tiếng hát ngợi ca tổ quốc Việt Nam muôn năm

Phân tích hũ đại cáo 2

Phân tích Bình Ngô Đại Cáo
Lấp lánh như sao Khuê trong tâm hồn, trong trái tim “yêu nước” - những chuyển biến sâu sắc, sắc bén về sách lược chính trị; Nhẹ nhàng mà thanh tao, nên thơ trong những bài thơ viết về thiên nhiên, Nguyễn Trãi đã tạc mình vào hình bóng dân tộc. Số phận có thể khiến con người sống chết nhưng thời gian không thể xóa nhòa những giá trị vĩnh cửu. Sự trường tồn của tên tuổi Nguyễn Trãi và non sông Việt Nam là một minh chứng hùng hồn cho điều đó. Nếu Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận kiệt xuất của mọi thời đại thì Bình Ngô Đại Cáo là áng văn bất hủ của ông trong lịch sử văn học dân tộc Việt Nam. Tác phẩm gồm 4 phần: phần 1 nêu luận điểm chính đáng, phần 2 vạch tội ác của giặc, phần 3 kể lại cuộc chinh phục gian khổ và tất yếu của cuộc khởi nghĩa, phần 4 tuyên bố kết quả, khẳng định sự nghiệp chính trị. Bài viết dưới đây sẽ chỉ làm rõ tội ác của giặc Minh qua phần 2 của tác phẩm.

Sau hơn 10 năm kháng chiến gian khổ và ác liệt, ngày 1/1/1428, nhân dân ta dưới ngọn cờ của Lê Lợi đã đánh đuổi quân Minh xâm lược ra khỏi bờ cõi đất nước. Sau khi chiến thắng, Lê Lợi tổ chức lễ khao quân tướng sĩ và chính thức lên ngôi, Nguyễn Trãi thay mặt vua viết Bình Ngô Đại Cáo báo cáo với toàn dân công cuộc cứu nước đã toàn thắng. Từ đây, đất nước sẽ bước sang một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên hòa bình.

Tác phẩm của Nguyễn Trãi có tên là Đại cáo bình Ngô, nghĩa là lời cáo chung về việc dẹp giặc Ngô. Chữ Ngô ở đây là cách Việt xưa gọi các thế lực phong kiến ​​phương Bắc với một sắc thái khinh miệt. Trong tác phẩm, quân Ngô là giặc Minh.

Nếu đoạn 1 nêu lên lập trường chính nghĩa thì đoạn 2 là bản cáo trạng đanh thép vạch rõ tội ác của quân Minh xâm lược. Nguyễn Trãi đã vạch trần âm mưu thâm độc của chúng: lợi dụng nhà Hồ là diệt vong. , giặc Minh nhân cơ hội cướp nước ta:

Bởi họ Hồ, rắc rối là,
Để lòng dân ôm oán trong nước.
Quân Minh điên cuồng nhân cơ hội gây hại,
Ác nhân cũng bán nước cầu vinh.

Năm 1406, lấy cớ nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần, nhà Minh huy động một lực lượng lớn gồm 20 vạn bộ binh, thủy binh cùng hàng vạn nhân công vận tải, dưới sự chỉ huy của Chu Năng, Trương Phụ, Mộc Thạnh. , Lý Bân, Trần Húc kéo sang xâm lược Đại Việt. Quân Minh chia làm hai cánh: một cánh do Trương Phụ chỉ huy theo đường Bằng Tường, Quảng Tây tiến vào Lạng Sơn, một cánh do Mộc Thạnh chỉ huy từ Vân Nam tiến theo sông Hồng. Nhà Minh còn sai người đem sắc dụ vua Chiêm để phối hợp tấn công biên giới phía Nam.

Trong hai mươi năm đô hộ nước ta (1407-1427), chính quyền thực dân nhà Minh đã thi hành nhiều chính sách, biện pháp từ tinh vi đến trắng trợn nhằm xóa bỏ quá khứ đấu tranh dựng nước và giữ nước phi pháp. của dân tộc ta, hòng phá bỏ những di sản văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc Đại Việt để đô hộ vĩnh viễn nước ta. Nhà Minh nhiều lần đốt sách, kể cả sách học trò, phá bia. Lịch sử đã ghi tội ác của quân Minh xâm lược và Bình Ngô Đại Cáo một lần nữa tố cáo mạnh mẽ tội ác của chúng.

Tác giả khẳng định đó là tội “Mất nhân nghĩa, hại trời đất” và miêu tả hành động man rợ của chúng. Âm mưu xâm lược của kẻ thù càng thâm độc bao nhiêu thì sự cai trị của chúng càng thâm độc bấy nhiêu. Vẫn những chính sách cũ, nhưng thâm độc hơn nhiều: chúng không những bóc lột, cướp đoạt mọi sản vật, sức người, sức của của ta mà còn hủy hoại cả môi trường sống (có hại như sâu bọ, cây cỏ). và tàn sát người mà không biết cách xử lý. Hai câu:

Nướng những người da đen trong ngọn lửa hung dữ,
Hãy chôn con đỏ trong hố thảm họa.

Đây là hình ảnh vừa cụ thể, vừa khái quát như một bản cáo trạng, tố cáo kẻ thù. Văn học trung đại Việt Nam không có nhiều nhà thơ đưa hình ảnh “Người da đen” vào trang viết của mình. Dân đen - kiếp người nhỏ bé dưới đáy xã hội. Họ là nạn nhân của những tội ác mà kẻ thù đã gieo rắc trên biên giới của Dan Tribe. Nếu không có tấm lòng rộng mở, nếu không có tư tưởng nhân bản. Với triết lý tôn giáo sâu sắc, làm sao Nguyễn Trãi có thể viết nên những câu văn giàu sức gợi và nhân văn như vậy? Có thể nói hai câu đối này được viết nên bằng máu và nước mắt của một vị anh hùng đã suốt đời phụng sự dân vì nước.

Những sản phẩm nạo vét, hủy hoại con người, tội ác của kẻ thù không thể kể hết bằng giấy bút:

Tội nghiệp tre Nam Sơn không ghi hết tội,
Bẩn thay, nước Đông Hải rửa không sạch mùi.

Nguyễn Trãi đã chọn cái vô cùng (cây tre Nam Sơn, nước Đông Hải) để nói về tội ác của loài yêu quái (anh há miệng, kẻ nhe răng). Chúng như những con dã thú khát máu người, chỉ biết cắn xé. xâu xé dân ta đến tận xương tuỷ. Hậu quả chúng để lại thật tàn khốc: gia đình tan nát, vợ mất chồng, con thơ dại, muôn loài bị tiêu diệt, diệt vong, sản xuất đình trệ, nhân dân lầm than.

Để làm nổi bật tội ác của quân xâm lược, tác giả đã sử dụng biện pháp liệt kê chọn lọc, sử dụng câu văn giàu hình ảnh, giọng văn thay đổi linh hoạt, phù hợp với cảm xúc. Có lúc, anh tỏ ra phẫn nộ. , căm giận đến tận xương tủy quân xâm lược tàn bạo, nhiều lúc tỏ ra ngậm ngùi, đau xót cho nhân dân ta.

Hai câu cuối lên án rất gay gắt:

Trời đất làm sao dung tha,
Ai nói thần chịu được?

Tội ác của giặc Minh vượt quá trời định. Hành động bẩn thỉu của chúng khiến cả thần linh và con người đều không thể tha thứ.

Đứng trên lập trường nhân nghĩa, đoạn văn là máu và nước mắt, thể hiện lòng căm thù giặc sục sôi của Nguyễn Trãi.

Tóm lại, đoạn văn này là một bản cáo trạng đanh thép tố cáo những tội ác khủng khiếp mà quân Minh xâm lược đã gây ra suốt 20 năm trên đất Đại Việt.

Bảo đảm vừa nâng cao tính thuyết phục, vừa đạt được sự cô đọng, cô đọng, sinh động.

Như vậy, bằng chính trái tim và khối óc của mình, Nguyễn Trãi đã làm nên Bình Ngô Đại Cáo xứng đáng được xưng tụng là Hùng Văn thiên cổ. Để nền văn học Việt Nam tự hào có một Nguyễn Trãi. Người Việt Nam tự hào có một Ức Trai.

Phân tích hũ đại cáo 3

Phân tích Bình Ngô Đại Cáo
Sau khi đánh tan quân Minh xâm lược, Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi viết tờ cáo báo tin toàn dân đánh giặc thắng lợi. Phóng sự không chỉ khẳng định chủ quyền đất nước, tố cáo tội ác của quân Minh xâm lược mà còn trình bày quá trình từ đấu tranh bất khuất đến thắng lợi của dân tộc Đại Việt. Đặc biệt, vai trò lãnh đạo và quyết tâm đánh thắng giặc của vua Lê Lợi đã được thể hiện rõ nét.
Mở đầu phần ba, tác giả nêu lên những khó khăn mà bản thân vua Lê Lợi nói riêng và nhân dân Đại Việt nói chung phải đối mặt:

"Tôi ở đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Nơi hoang dã để trú ẩn
Hãy nghĩ về kẻ thù lớn, đội trời chung
Hận thù không thề chung sống
Đau lòng, nhức nhối mười năm
Nếm mật nằm gai, có khi một hai sớm tối.
Giận đến quên ăn, thao lược thao lược đã tinh luyện,
Suy nghĩ đến bây giờ, lý do được xem xét cẩn thận hơn.
Lăn qua lăn lại trong giấc mơ,
Chỉ thắc mắc một điều
Ngay khi lá cờ được kéo lên,
Đó là khi kẻ thù mạnh mẽ."

Bài thơ thể hiện sự khó khăn và quyết tâm của vua Lê Lợi. Vì không thể chấp nhận cảnh nhân dân trở thành nô lệ cho giặc Minh gian ác, người anh hùng Lê Lợi quyết nằm gai nếm mật chờ ngày phất cờ khởi nghĩa. Vua Lê căm thù, đau lòng, trằn trọc trong mộng chỉ vì muốn đánh tan quân Minh. Nhân lúc quân Minh còn mạnh, khó tìm được người tài khởi nghĩa:

“Lại vì:
Tuấn kiệt như sao mai,
Tài năng giống như lá mùa thu.”

Nghệ thuật so sánh thể hiện hoàn cảnh khó khăn của đất nước. Khó khăn chồng chất, vua không có người bàn bạc, giúp đỡ. Tuy nhiên, lòng người cứu nước vẫn hướng về phương Đông, mong đánh tan quân thù. Trông coi thì dân vắng nên Lê Lợi phải tự thân vận động, phần vì muốn dẹp yên chiến loạn, phần vì lo cho nước. Cũng có lúc hết lương, tàn quân, nhưng lòng dân một lòng, ý chí quật cường, vua Lê dùng sách lược lấy ít địch nhiều, dùng yếu chống mạnh.

Và sự thật cho thấy, bằng sự nỗ lực vượt qua khó khăn, ý chí và tài thao lược quân sự tài tình, Lê Lợi đã lãnh đạo nhân dân đánh thắng, đánh đuổi quân Minh về nước:

“Hoàn toàn tốt:
Mang công lý vĩ đại để chiến thắng sự tàn ác,
Dùng ý chí để thay thế bạo lực.
Trận Bồ Đằng sấm chớp,
Ở vùng Trà Lân, tre chẻ tro bay
……..
Dòng Lãnh Câu, máu chảy thành sông, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc
Đan Xá thành, xác chất thành núi, nội cỏ đẫm máu đen.
Hai đạo quân cứu binh tan tành, không kịp quay gót.”

Bằng biện pháp nghệ thuật liệt kê diễn biến của từng trận đánh, nhà văn đã thuật lại một cách chi tiết nhất. Những cái tên như Trần Trí, Sơn Thọ, Lý An, Phương Chính, Tuyên Đức, Liễu Thăng... đều trở thành những tên gọi vui cho thiên hạ. Vì lòng tham, vì bạo ngược, vì ngu si mà chiếm lấy. “Mùng mười tháng tám” rồi đến “ngày hai mươi” tác giả dùng thời gian để tường thuật lại quá trình vua Lê Lợi cùng nghĩa quân từng bước giành thắng lợi. Chúng ta lấy nhân nghĩa để trừ bạo ngược, dùng chính nghĩa để thắng hung tàn. Những trận chiến như sấm sét, rải tro tàn. Đánh cho chúng không còn đường lui, phải bò ra ngoài xin hàng, xác chồng chất, máu đầy sông.

Không chỉ đánh thắng liên tiếp, Lê Lợi và quân sĩ còn thể hiện lòng nhân nghĩa ngay cả khi ta chiến thắng:
“Mã Kỳ, Phương Chính, cho năm trăm chiếc thuyền, ra biển mà mất hồn,
Vương Thông, Mã Anh, phát mấy vạn ngựa, về nước mà lòng vẫn run sợ.

Bọn họ tham sống sợ chết, nhưng thật sự hòa thuận
Tôi muốn sử dụng toàn bộ quân đội, hãy để mọi người nghỉ ngơi."

Xem thêm: rối loạn tiền đình có nguy hiểm không

Tuy thắng trận nhưng quân ta vẫn cấp thuyền, ngựa cho họ về nước. Theo Lê Lợi, nếu thật lòng muốn hòa hoãn, ta nên để toàn quân yên dân.

Đó là một trận chiến gian khổ để giành chiến thắng ngày hôm nay. Cuộc chiến tranh của quân dân Đại Việt là cuộc chiến tranh chính nghĩa, dùng nhân nghĩa để chống lại bạo quyền tàn bạo và kết quả là chính nghĩa đã chiến thắng. Đồng thời, chúng ta cũng tự hào về vua Lê Lợi - người anh minh hơn người đã lãnh đạo nhân dân đánh đuổi quân Minh ra khỏi bờ cõi đất nước. Đặc biệt không thể không nhắc đến tài năng và công lao của Nguyễn Trãi khi viết nên thiên anh hùng ca này.

Đây là bài tập làm văn Phân tích Bình Ngô Đại Cáo , Baitaplamvan chúc các bạn học tốt!