bài viết liên quan
Bạn đang xem: phân tích đoạn 1 vội vàng
- Dàn ý Phân tích 13 dòng đầu bài thơ Vội vàng
- Phân tích khổ thơ đầu bài thơ Vội vàng để làm sáng tỏ nhận định trên
- Phân tích bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu
- Phân tích bài thơ Vội vàng đoạn 2
- Lập dàn ý phân tích vẻ đẹp thiên nhiên trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu
Đề tài: Phân tích 13 dòng đầu bài thơ “Vội vàng”
1. Dàn ý chi tiết
2. Bài mẫu số 1
3. Bài mẫu số 2
4. Bài mẫu số 3
5. Bài mẫu số 4
6. Bài mẫu số 5
Bài văn mẫu Phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu
I. Dàn ý Phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội vàng (Chuẩn) của Xuân Diệu
1. Mở bài
– Giới thiệu chung về tác giả Xuân Diệu và bài thơ Vội vàng.
- Giới thiệu 13 dòng đầu của bài thơ.
2. Cơ thể
Một. Phân tích 4 dòng đầu của bài thơ
– Được viết theo thể 5 chữ, ngắn gọn, giàu giá trị biểu cảm.
– Điệp ngữ “tôi muốn” ở đầu câu khẳng định cái tôi chủ động của nhân vật trữ tình.
– Thủ pháp cấu trúc đề cao khát vọng mãnh liệt của cái tôi cá nhân…(Còn tiếp)
>> Xem chi tiết Dàn ý Phân tích 13 câu thơ đầu bài thơ Vội vàng tại đây.
II. Bài văn mẫu Phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội vàng
1. Phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu, văn mẫu số 1 (Chuẩn):
Xuân Diệu là nhà thơ tiêu biểu của nền văn học Việt Nam nói chung và phong trào Thơ mới nói riêng. Ông được coi là nhà thơ của tình yêu và tuổi trẻ, những tác phẩm của Xuân Diệu là những hồn thơ yêu đời, thiết tha với cuộc sống, gắn bó thiết tha, mãnh liệt với cuộc đời. Xuân Diệu đã đem đến cho Thơ Mới cái nồng nàn, sục sôi và một cái tôi đầy ý thức. Bài thơ Vội vàng là một trong những bài thơ thành công nhất của ông.
Vội vàng được in trong tập Thơ thơ, là bông hoa đẹp trong vườn thơ muôn màu trên văn đàn Việt Nam. Đoạn thơ đã bộc lộ những khát khao mãnh liệt của nhà thơ trước mùa xuân, thời gian và tuổi trẻ. Qua tác phẩm, Xuân Diệu còn gửi đến người đọc những quan niệm sống mới mẻ, sâu sắc. Trong 13 câu mở đầu của bài thơ, ta bắt gặp cái tôi yêu đời, yêu cuộc đời của thi nhân.
"Tôi muốn mặt trời ngừng chiếu sáng
Để màu không phai
Tôi muốn buộc gió
Cho hương đừng bay đi”
Bài thơ mở đầu bằng 4 câu thơ được viết theo thể 5 âm, cảm xúc dường như bị dồn nén đến tột độ để rồi được bộc phát khát vọng táo bạo nhưng cũng vô cùng lãng mạn của nhà thơ. Điệp ngữ “tôi muốn” ở đầu câu khẳng định cái tôi chủ động của nhân vật trữ tình trước vũ trụ bao la, kì vĩ. Thủ pháp kết cấu càng nhấn mạnh khát vọng mãnh liệt của cái tôi cá nhân, muốn được “trốn nắng”, “buộc gió” để níu giữ khoảnh khắc trong lành của nắng gió, níu giữ cái tinh túy của thiên nhiên. Trái đất và bầu trời. Đó là khát vọng thay đổi tạo hóa, ngăn dòng thời gian để thưởng thức trọn vẹn, “no nê” hương sắc của thế gian. Đứng giữa một vũ trụ tươi đẹp ấy là một cái tôi mạnh mẽ, quyết liệt, táo bạo.
Không phải ngẫu nhiên tác giả muốn tắt nắng, buộc gió, không phải ngẫu nhiên nhà thơ lại có những ước mơ táo bạo như vậy. Trước vẻ đẹp của mùa xuân, của đất trời mà nhà thơ không khỏi thổn thức, say đắm. Một bức tranh mùa xuân rực rỡ, tươi tắn, tràn đầy sức sống hiện ra trước mắt nhà thơ.
“Đây là tuần trăng mật của ong và bướm
Đây là những bông hoa của những cánh đồng xanh
Kìa cành lá rung rinh
Của tổ anh đây tình ca.
Và đây là đèn nhấp nháy.”
Điệp khúc “đây là…của” tạo nên âm hưởng vui tươi, rộn ràng, phấn khởi, xao xuyến khi mùa xuân về. Cảnh vật dưới con mắt của nhà thơ đang ở trạng thái căng tràn sức sống, đua nhau khoe sắc hương khi mùa xuân “chín”. Những hình ảnh gợi cảm của thiên nhiên dần hiện ra, đó là cảnh ong bướm đua nhau tìm mật trong “tuần lễ mật ong” - thời điểm đẹp nhất của tình yêu đôi lứa và cũng là thời điểm đẹp nhất trong cuộc đời. cuộc sống của mỗi người. Không chỉ có ong bướm, hương hoa, mùa xuân mang đến cho vùng quê một màu “xanh” diệu kỳ, cỏ cây trên cánh đồng như trải thảm khoác lên mình một màu xanh tươi mát, giàu sức sống. Những chiếc lá non trên “nhành lụa” cũng kiêu hãnh rung rinh theo từng cơn gió xuân, mơ màng nhảy múa dưới nắng xuân trẻ trung, nhiệt huyết. Bản tình ca nồng nàn được đàn chim bay về hội tụ “đây là bản tình ca của loài chim này”.
Bài văn Phân tích 13 câu thơ đầu bài thơ “Vội vàng”
Bằng nghệ thuật điệp ngữ, liệt kê, sử dụng các tính từ chỉ trạng thái và những hình ảnh gần gũi, đời thường, tác giả đã khắc họa một bức tranh mùa xuân sống động, đẹp đẽ và gợi cảm. vô cùng quyến rũ. Bức tranh có hoa, có ong, có bướm, có chim, có lá xanh, có nắng vàng, có ánh sáng tinh khiết qua hàng mi cong của thiếu nữ, có hương hoa, có tiếng chim hót líu lo. , trong đó có tiếng nói thiết tha của nhà thơ. Vẽ bức tranh ấy, phải chăng tác giả muốn gửi gắm đến người đọc rằng cái đẹp không ở đâu xa, cái đẹp hiện hữu quanh ta, vì vậy hãy lưu lại và tận hưởng, nâng niu và giữ gìn.
“Mỗi sớm mai, thần vui gõ cửa”
Đối với Xuân Diệu, bình minh mỗi ngày là một niềm hy vọng, một ngày mới sẽ luôn là một ngày may mắn và tràn ngập niềm vui. Vì không có niềm vui nào lớn hơn niềm vui được sống, được hưởng thụ và được cống hiến. Thần Vui Vẻ luôn chờ đợi mọi người, mang hạnh phúc và tiếng cười đến mọi nhà, mọi nơi.
Tác giả cảm nhận mùa xuân bằng chính con người mình, bằng cả tâm hồn và thể xác. Vì thế, mùa xuân ấy được gợi lên không chỉ bằng những hình ảnh nhìn thấy, nghe thấy mà còn bằng những rung động tinh tế của tâm hồn:
“Tháng giêng ngon như đôi môi kề môi”
Nét mới lạ trong thơ Xuân Diệu một lần nữa được thể hiện rõ nét qua hình ảnh so sánh táo bạo “tháng giêng” với “đôi môi kề sát” kết hợp với nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác bằng tính từ “ngon”. . Hạnh phúc biết bao, say đắm biết bao, Xuân Diệu mới cảm nhận được vị ngọt ngào của dòng thời gian. Đó là thanh xuân ngọt ngào, là dòng hò hẹn ngọt ngào, là tuổi trẻ ngọt ngào của thi nhân. Thơ trung đại lấy thiên nhiên làm chuẩn mực để miêu tả vẻ đẹp con người thì Xuân Diệu lại lấy con người làm chuẩn mực cho cái đẹp, đây là đặc điểm nổi bật trong tư duy mới của nhà thơ. Vì con người là trung tâm của văn học và đời sống xã hội.
Vẻ đẹp của đất trời khi mùa xuân đến như một thiên đường mê đắm hay vẻ đẹp của đời người những năm tháng tuổi trẻ đã khiến nhà thơ ái ngại với thời gian. Hai dòng cuối bài thơ bỗng vang lên tiếc nuối, âm vang:
"Tôi hạnh phúc. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không đợi nắng hè về để đón xuân.”
Dấu câu ở giữa khổ thơ như một bản lề đóng mở hai dòng tâm trạng. Đó vừa là niềm hân hoan, hạnh phúc vô bờ bến trước khung cảnh hữu tình, quấn quýt của mùa xuân, nhưng cũng vừa vội vàng, sợ dòng chảy của thời gian nên cũng “vội vàng một nửa”. Nó thật kì lạ! Người ta thường nuối tiếc những gì đã mất, nhưng với Xuân Diệu, tiếc những gì đang có ở hiện tại, phải chăng nhà thơ nhận ra rằng thời gian sẽ làm phai nhòa và xóa nhòa tất cả.
“Em không chờ nắng hè mới mùa xuân"
Không đợi hè đến để nhớ xuân, tác giả tiếc xuân giữa mùa xuân, tiếc tuổi thanh xuân để rồi tự nhắc mình phải trân trọng từng phút từng giây của hiện tại. Hãy chạy đua với thời gian, với tuổi trẻ để sống một cuộc đời đáng sống, sống một tuổi trẻ huy hoàng bởi tuổi trẻ không bao giờ có thể lấy lại được hai lần.
Bài thơ với 13 câu thơ tràn đầy cảm xúc, một bức tranh mùa xuân tươi tắn hiện ra trước mắt người đọc như báo trước một tương lai tốt đẹp, một tuổi trẻ đáng tự hào. Bài thơ thôi thúc mỗi chúng ta hãy sống, hãy tận hưởng và trân trọng giây phút hiện tại, hãy trân trọng những vẻ đẹp quanh ta, đừng đánh mất để rồi vội hối tiếc.
———————————————
Bài văn Cảm nhận về tình yêu cuộc sống trong bài thơ: Của ong bướm… hoài xuân mới cũng nằm trong chương trình Ngữ Văn lớp 11. Các bạn có thể tham khảo bài văn mẫu. Cảm nhận về tình yêu cuộc sống trong bài thơ: Của ong bướm….nỗi nhớ mới để có thể chuẩn bị bài tốt nhất để khi gặp phải có thể làm bài thi hoàn hảo, tốt nhất.
2. Phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội vàng, bài văn mẫu số 2 (Chuẩn)
Nhận xét về Thơ mới giai đoạn 1932-1941, nhà phê bình văn học Hoài Thanh đã có những nhận xét thú vị rằng "Chưa bao giờ ta thấy một hồn thơ rộng mở và mộng mơ lại xuất hiện cùng lúc với Thế Lữ. Như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, thiểu não như Huy Cận, dị hợm như Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, quê mùa như Nguyễn Bính, và nồng nàn, say đắm, khắc khoải như Xuân Diệu”. Và giữa hàng loạt những tên tuổi nổi bật, Hoài Thanh cũng đặc biệt chú ý đến Xuân Diệu với mỹ từ quý giá “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới”. Nói điều này để hiểu rằng Xuân Diệu trong văn đàn Việt Nam không chỉ là một tên tuổi nổi bật, mà sự xuất hiện của ông là một sự kiện quan trọng đưa thơ Mới lên một tầm cao mới, không chỉ trên toàn thế giới. Bên cạnh nỗi buồn, sự mất mát hay nỗi niềm của con người trước thế sự, Xuân Diệu quan tâm nhiều hơn đến đời sống cá nhân, bộc lộ cái tôi cá nhân đích thực của mình một cách rõ ràng, chắc chắn, cũng bộc lộ nhiều cung bậc cảm xúc. nồng nàn, say đắm với tình cảm của mình với mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu nhưng đôi khi người ta vẫn không hiểu động cơ nào đã khiến nhà thơ có một sự gắn bó sâu sắc như vậy. Thơ lãng mạn của Xuân Diệu phảng phất hương vị Pháp, nhưng hơn hết là thơ Việt Nam vẫn rất nồng nàn, người đã thổi một luồng gió mới cho thơ Việt Nam, cống hiến bằng “một nguồn sống dồi dào chưa tìm thấy trên xứ sở yên tĩnh này ." Nổi bật nhất trong đời thơ Xuân Diệu phải kể đến Sự vội vàng một bản giao hưởng đầy ắp những âm hưởng đặc sắc nhất của tình yêu, trong đó mười ba câu thơ đầu thể hiện trọn vẹn con người trữ tình mới của tác giả, đồng thời bộc lộ những quan niệm, triết lí nhân sinh. nghĩa sinh sâu sắc mà Xuân Diệu muốn gửi gắm.
"Tôi muốn mặt trời ngừng chiếu sáng
Để màu không phai
Tôi muốn buộc gió
Cho hương đừng bay đi”
Xuân Diệu mở đầu bài thơ bằng những câu thơ ngắn, thể hiện khát vọng mãnh liệt, táo bạo và ngông cuồng chưa từng có trong thơ ca Việt Nam giai đoạn trước, đó là khát vọng làm chủ cả tạo vật. Điệp khúc “Tôi muốn…” nhấn mạnh khát vọng mãnh liệt được “tắt nắng”, “buộc gió” thật phi lý, lạ lùng. Nhưng cũng chính từ câu thơ ấy, người ta thấy được hai cái tôi trữ tình độc đáo của người nghệ sĩ, một cái tôi rất ngông cuồng, táo bạo, dám thách thức cả vũ trụ, tắt cả đèn mà sáng. hàng triệu năm của loài người, để rồi muốn “trói” những cơn gió vốn được mệnh danh là vị thần tự do không gì trói buộc được. Một cái tôi khác được bộc lộ trong 4 câu thơ này là cái tôi hồn nhiên, ngây thơ và trong sáng, Xuân Diệu như một đứa trẻ, một khi đã muốn cái gì thì phải đòi bằng được, dù có phần “hữu dụng”. thế kỷ” nhưng thực tế là nó có thể hiểu được. Và hai cái tôi tưởng chừng như tách biệt ấy lại kết hợp với nhau để tạo thành một cái tôi chung của Xuân Diệu, đều hướng đến cùng một khát khao, khát khao níu giữ những vẻ đẹp của thiên nhiên, tạo hóa.
Muốn tắt nắng, thực ra là sợ mặt trời ngả về tây, mang theo màu nắng chói chang, muốn buộc gió, là sợ hương gió lướt qua quá nhanh, mang đi mất. tất cả những hương thơm ngào ngạt của đồng cỏ đầu mùa. mùa xuân. Đồng thời, qua những câu thơ đầu tiên, người ta còn nhận ra một triết lý sống mới trong thơ Xuân Diệu, đó là sự nhận thức về cái đẹp tồn tại trong chính cuộc sống đời thường. Với nhà thơ, hạnh phúc không phải là sự tìm quên hay trốn chạy những đau khổ trần thế như nhiều văn nhân, khách nhân trước đây, mà ngược lại, hạnh phúc đối với ông là sự nhận ra và tận hưởng những điều chân chính. vẻ đẹp vốn có trong thế giới con người. Bên cạnh đó, tác giả cũng hiểu được quy luật của tạo hóa, con người chỉ có một kiếp người để sống rồi trở về với cát bụi chứ không hề có kiếp luân hồi. Chính vì thế trước dòng chảy của thời gian, vòng quay của tạo vật Xuân Diệu càng nâng niu cuộc đời ngắn ngủi hơn hai mươi năm của mình, càng yêu mùa xuân càng tiếc tuổi trẻ. Tôi gần như đi được nửa đường rồi. Vì vậy, khi nhìn thấy mặt trời, ngửi thấy hương thơm ngào ngạt của loài hoa tượng trưng cho mùa xuân và tuổi trẻ, nhà thơ bỗng chạnh lòng muốn “tắt nắng”, “buộc gió” cho thời gian ngừng trôi. , để kéo dài tuổi thọ thêm một chút, để tham lam hưởng thêm một chút dư vị của mùa xuân tươi đẹp. Nhưng đó chỉ là những giải pháp trước mắt trong khi nhà thơ còn đang phân vân, hoang mang, chưa nhìn ra được những giải pháp khác.
"Đây là ong mật và bướm
Đây là những bông hoa của những cánh đồng xanh
Kìa cành lá rung rinh
Của tổ anh đây tình ca.
Và đây là ánh sáng nhấp nháy
Mỗi sớm mai Thần Vui Vẻ gõ cửa
Tháng giêng ngon như đôi môi kề môi”.
Sau bao mong chờ thời gian ngừng trôi, Xuân Diệu bắt đầu tĩnh tâm lại, đồng thời phát hiện ra một bức tranh thiên nhiên mùa xuân tuyệt đẹp khiến nhà thơ sung sướng, hạnh phúc vô cùng. Đồng thời, qua bức tranh thiên nhiên ấy, tác giả cũng bộc lộ những triết lý nhân sinh sâu sắc, về mối quan hệ giữa mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu, mối quan hệ hài hòa giữa con người với thiên nhiên, cũng như mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên. như sự tinh tế trong việc khai thác vẻ đẹp tiềm ẩn của thiên nhiên mà trước đây con người thường không để ý đến.
Việc tác giả sử dụng liên tục điệp khúc “này đây…” không chỉ đơn thuần là liệt kê cảnh vật trong vườn xuân mà còn thể hiện một cách tinh tế sự ngạc nhiên, từ ngạc nhiên đến vui mừng của nhà thơ trước cảnh vật. thiên nhiên tươi đẹp, là niềm hạnh phúc tột cùng khi được hòa mình vào giữa mùa xuân để tự do tận hưởng. Và đặc biệt trong con mắt mê hồn của nhà thơ, mỗi cảnh xuân không chỉ là cảnh vật, mà nó chứa đựng bao cung bậc cảm xúc của tình yêu đôi lứa. Đó là cảnh ong bướm lượn quanh hoa, quyến luyến không rời như đôi lứa trong “tuần trăng mật” ngọt ngào, nồng nàn, là cảnh hoa nở cỏ xanh, hòa hợp như đôi lứa yêu nhau. nhau lâu rồi mới hiểu nhau thật. Sau đó là cảnh lá với “cành bông” như đang yêu nhau, âu yếm nhau. Không chỉ có cảnh tĩnh lặng, êm đềm, Xuân Diệu còn điểm thêm chút âm thanh rộn ràng của những “con én” nồng nàn yêu đời bằng “bản tình ca” ngọt ngào, say đắm như một khu vườn. Mùa xuân tràn đầy sức sống.
Bài văn Phân tích 13 câu thơ đầu bài thơ Vội vàng mới nhất
Bức tranh thiên nhiên mùa xuân cũng trở nên hoàn hảo hơn với đủ loại hương sắc. Nhưng nếu cảnh xuân chỉ có thế thôi thì vẫn chưa phải là hồn thơ Xuân Diệu bởi trời còn quá lạnh, chính vì thế mà nhà thơ đã thêm một ánh sáng dịu dàng trong câu “Và kìa ánh sáng lấp ló trên hàng mi”. Thứ ánh sáng dịu nhẹ, ấm áp bao trùm khắp hoa lá, dường như bừng sáng sự sống vạn vật, sưởi ấm lòng thi nhân, là thứ ánh sáng quý giá tượng trưng cho sự sống, soi sáng trái tim. tâm hồn con người, làm cho bức tranh thiên nhiên thêm ấm áp, nồng nàn, tươi trẻ. Song song với sự xuất hiện của ánh sáng là sự xuất hiện của con người qua hình ảnh thực của “đôi mi”. Đó có thể là hàng mi dài cong vút của người thiếu nữ dạo chơi trong vườn xuân, ánh sáng chiếu vào hàng mi là một khung cảnh nên thơ, tạo cho tác phẩm một nét lãng mạn hiện thực tinh tế.
Cũng cảnh “hàng mi” ta cũng có thể hình dung đó là hình ảnh chính thi nhân đang thưởng ngoạn mùa xuân, cảm nhận hơi ấm của nắng xuân bao phủ lấy thân mình. Nhưng dù thế nào, ta cũng thấy trong bức tranh thiên nhiên của Xuân Diệu, con người dường như chỉ hiện ra qua một “đôi mi” nhưng vẫn đạt hiệu quả nghệ thuật ấn tượng, khi khẳng định sự hòa hợp của thiên nhiên với con người, cũng như vẻ đẹp của tình yêu. đối với thiên nhiên, tình yêu cuộc sống rất đậm đà, tha thiết.
Đứng trước vẻ đẹp tuyệt vời của bức tranh thiên nhiên, Xuân Diệu càng cảm nhận rõ sự quý giá của tuổi trẻ và mùa xuân, đồng thời thức tỉnh trong lòng mình một chân lý sâu sắc qua câu thơ “Mỗi sáng Thần Vui gõ cửa ” Đối với nhà thơ, mỗi ngày thức dậy, được nhìn thấy ánh nắng, nhìn thấy cảnh sắc thiên nhiên tràn đầy sức sống là niềm vui, hạnh phúc nhất của đời người. Đặc biệt ở câu thơ cuối đoạn “Tháng giêng ngon như cặp môi”, sự chuyển đổi cảm xúc đầy ấn tượng từ thính giác, xúc giác, thị giác, tác giả còn cảm nhận mùa xuân bằng vị giác. Đó là một cảm giác thực sự trừu tượng đối với người đọc nhưng lại thể hiện rất tinh tế tình yêu mùa xuân nồng nàn, tha thiết của tác giả. Xuân Diệu thì không chỉ ngắm nhìn mà cũng cảm nhận mùa xuân như người sành ăn thưởng thức món ngon, như người tình đang yêu trong một tình yêu đầy hy vọng.Chất thơ mộng, lãng mạn Pháp được bộc lộ nhiều gợi cảm trong cách nhà thơ nhìn mùa xuân như sự căng mọng, rực rỡ đôi môi của tuổi trẻ đôi mươi. Ở trong đó, người ta có thể cảm nhận được khát khao tận hưởng, ôm trọn thiên nhiên mùa xuân, tình yêu nồng nàn của người nghệ sĩ đối với thiên nhiên, cuộc sống và tuổi trẻ. Xuân Diệu ví mùa xuân là tình yêu, cũng nhìn thấy mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, từ đó ông trân trọng từng giây phút được sống, được hưởng thụ, được hòa mình vào thiên nhiên.
Có thể thấy, Xuân Diệu quả là một con người thực tế, ông không đi tìm những niềm vui xa xôi mà ngược lại, ông hướng về những vẻ đẹp của cuộc sống đang hiện hữu hàng ngày xung quanh con người. trải nghiệm hạnh phúc thực sự và đơn giản. Đồng thời, ông cũng nhận thức được những triết lý nhân sinh sâu sắc về lẽ sống, những quan niệm chân chính về hạnh phúc trong cuộc sống mới, đưa văn học Việt Nam dần xa rời những quan niệm xưa cũ luôn tìm cách lãng quên. , sự thoát ly, xa lìa thế tục vốn dĩ đã không còn phù hợp.
3. Phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu, văn mẫu số 3 (Chuẩn)
Trong thời kỳ phong trào thơ mới nở rộ với sự ra đời của các cây bút sáng tạo, tuổi trẻ dường như lấn át cả một nền thơ cổ đã ngự trị đất nước hàng nghìn năm. Trong đó không thể không nhắc đến những cái tên tiêu biểu như Huy Cận, Thế Lữ, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính, Lưu Trọng Lư, Vũ Đình Liên, v.v... đã tạo cho ông một chỗ đứng vững chắc trên chính đàn Việt Nam lúc bấy giờ. Và Xuân Diệu đã đến, đem đến một làn gió lạ cho làng thơ mới, được phong là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” mà Hoài Thanh đã viết những câu rất tâm đắc như sau: “Bây giờ khó mà diễn tả nỗi ngỡ ngàng của thi ca Việt Nam”. làng khi Xuân Diệu đến, ông đến giữa chúng tôi trong bộ áo gấm, chúng tôi ngại ngùng không làm bạn với con người xa cách này…”.Sở dĩ thơ Xuân Diệu mới là ở cách ông xây dựng và khai thác đề tài, giữa hàng loạt nhà thơ mới như vậy, nhưng chỉ có Xuân Diệu là có giọng điệu nồng nàn, say đắm khi nói về mùa Xuân về tình yêu cuộc đời như vậy. Có thể nói “Thơ Xuân Diệu cũng là một nguồn của cuộc sống chưa từng có ở đất nước trẻ yên tĩnh này. Xuân Diệu say mê tình yêu, say đắm cả bầu trời, sống vội, sống vội, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Trong Vội vàng ta có thể thấy rõ chất thơ ấy của Xuân Diệu, nhất là 13 câu thơ đầu, là cách nhà thơ cảm nhận, thưởng thức bức tranh thiên nhiên, bức tranh của con người, khi vui cũng như khi buồn. mùa xuân, và bức tranh mùa xuân.yêu tranh say đắm, tha thiết.
Thơ Xuân Diệu không phải ai cũng cảm nhận được cái hay của nó, bởi có lúc người ta thấy vội vàng, gấp gáp và có lúc quá “trần trụi”, khiến các nhà thơ thời đó khó tiếp nhận, bởi nó mới mẻ, mang âm hưởng Pháp, nhưng khi đọc sẽ thấy. đậm đà hương vị quê hương. Nó giống như một món ăn lạ, khó diễn đạt thành lời nhưng cái gì không giải thích được thì người ta sẽ bỏ qua. Ngược lại với những người đã yêu thơ Xuân Diệu thì rất cuồng nhiệt, và đa phần là những người trẻ, họ có chung một mong muốn là sống “tịt” để tận hưởng trọn vẹn nguồn cảm hứng của nhà thơ. Và “đối với một nhà thơ, không có gì quý hơn sự đón nhận tuổi trẻ”.
Bài viết Phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu hay nhất
Xem thêm: công dụng của hoa đu đủ đực
Ngay từ những dòng thơ đầu tiên, Xuân Diệu đã không ngần ngại bày tỏ khát vọng mãnh liệt của mình giữa cuộc đời.
"Tôi muốn mặt trời ngừng chiếu sáng
Để màu không phai;
Tôi muốn buộc gió
Để cho hương không bay đi.”
Đó là những ước muốn ngông cuồng và táo bạo, đúng với tính cách của Xuân Diệu. Nhà thơ muốn “tắt nắng”, muốn “buộc gió”, muốn đi ngược lại quy luật của đất trời, bởi trên hết Xuân Diệu ý thức được rằng không có màu nắng nào đẹp bằng màu nắng của mùa xuân. , cũng không màu nào đẹp bằng màu xuân. Không gì mát dịu và tuyệt vời bằng hương thơm của hoa cỏ trong gió xanh. Nên anh tiếc lắm, nếu nắng tắt, nếu gió cuốn đi hương hoa ngào ngạt, thì còn đâu mùa xuân tươi đẹp, xinh đẹp - thứ mà anh đã chờ đợi, mong mỏi và níu giữ cả đời. cuộc sống với tất cả đam mê và tha thiết. Chính vì vậy, nhà thơ đã thể hiện khát vọng cháy bỏng đi ngược lại quy luật khắt khe của tạo hóa, vượt lên trên thang trời đất để dành lại cho đời những gì tốt đẹp nhất, tuyệt vời nhất. . Đó là màu nắng nhẹ nhàng, dịu dàng ngập tràn sắc xuân, đó là hương sắc diệu kỳ của muôn loài hoa rực rỡ, tượng trưng cho cả một trời xuân khoe sắc. Thực ra là Xuân Diệu đang muốn “tắt nắng”, muốn “buộc gió” để ôm chúng mà vui một mình, không nghĩ đến ai cho cam! Xuân Diệu là một nhà thơ có trái tim “ích kỷ” lạ lùng như thế, tranh đấu, khao khát một điều mà ít kẻ hậu sinh nào để ý một cách vội vàng, hấp tấp, khiến người ta thương mà không trách. . Có thể nói, trong bốn câu thơ đầu nổi lên hai cái “tôi” rất thú vị, một cái tôi ngông cuồng, mạnh mẽ dám thách thức cả tạo vật, trời đất để đạt được khát vọng cá nhân. Và một cái tôi cũng rất hồn nhiên, ngây thơ như một đứa trẻ, bốc đồng và có những tưởng tượng rất ngông cuồng, nhưng rất trẻ trung và tràn đầy sức sống. Sự kết hợp giữa hai cái tôi tưởng như tách biệt ấy đã tạo cho nhà thơ một bức chân dung độc đáo, một màu sắc riêng trong thế giới thi ca đầy những con người tài hoa này.
Sau 4 câu thơ mở đầu bộc lộ niềm khát khao mùa xuân mãnh liệt, thiết tha của nhà thơ, 9 câu thơ tiếp theo là bức tranh thiên nhiên mùa xuân trong con mắt đằm thắm của Xuân Diệu.
"Đây là ong mật và bướm
Đây là những bông hoa của những cánh đồng xanh
Kìa cành lá rung rinh
Của tổ anh đây tình ca.
Và đây là ánh sáng nhấp nháy
Mỗi sớm mai Thần Vui Vẻ gõ cửa
Tháng giêng ngon như đôi môi kề môi”
Bức tranh thiên nhiên mùa xuân của một người yêu xuân như Xuân Diệu thực sự có những nét tinh tế và vẻ đẹp khác hẳn người thường. Nhà thơ cảm nhận mùa xuân qua nhiều giác quan, để đưa ra những nét vẽ chân thực, sống động và cũng có logic nhất định. Đồng thời, qua nhạc điệu của bài thơ, cùng với điệp khúc “này đây…”, người ta dễ liên tưởng đến một bài ca xuân với những giai điệu rộn ràng, mà tác giả là một tâm hồn phóng khoáng, đắm say trong từng lời ca. Mở đầu, người ta thấy bức tranh thiên nhiên hiện ra với hình ảnh đàn bướm tung tăng bay lượn, đàn ong mải miết đi tìm mật là kết tinh quý giá của tạo hóa. Và nếu có ong bướm, mật ngọt thì tất nhiên không thể thiếu hình ảnh hoa cỏ rực rỡ, những “cánh đồng xanh” mở ra một không gian thiên nhiên rộng lớn. Có hoa thì chẳng cần lá tô điểm cho bức tranh trọn vẹn, hình ảnh “lá rung cành” người ta thấy một cái gì rất mềm mại, rất non trẻ, gợi một mùa. Mùa xuân vừa mới bắt đầu, rất trìu mến và gợi cảm. Về hình ảnh, về âm thanh, Xuân Diệu đã rất tinh tế khi chọn “bản tình ca” của loài chim yến – loài chim tượng trưng cho mùa xuân làm nhạc đệm cho bức tranh thiên nhiên. Nhưng tất cả sẽ thật ảm đạm nếu không có ánh sáng, màu nắng nhợt nhạt của đất trời vào xuân. Xuân Diệu đã viết “Còn đây đèn chớp mi”, đèn chớp mi là gì, sao lạ lùng, nhưng đứng ở vị trí của nhà thơ, nó lại là một thứ ánh sáng đẹp đẽ, ấm áp đến lạ lùng. , để người ta không nỡ lòng trốn tránh mà đứng giữa đất trời để tận hưởng cảm giác nắng bao phủ lấy cơ thể, nhìn thấy nắng xuyên qua rèm cửa. Không quá gay gắt, không quá rực rỡ như nắng hè, không quá ảm đạm u uất như mùa đông, đó là thứ ánh sáng vừa đủ đẹp, vừa đủ ấm để tôn lên vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên mùa xuân trong lòng người nghệ sĩ. giả mạo. Xuân Diệu chỉ vẽ vài đường mà người ta liên tưởng đến cả một khu vườn rực rỡ sắc màu tươi tắn, âm thanh rộn ràng, ánh sáng dịu dàng ấm áp. khao khát. Có thể nói, thanh xuân tươi đẹp như vậy, tiếc gì người ta không ước, không ước.
Và tất nhiên, trong thơ Xuân Diệu không thể thiếu bóng dáng của tình yêu, bởi nếu không có tình yêu thì dường như bức tranh thiên nhiên mùa xuân đại diện cho tuổi trẻ cũng trở nên nhạt nhòa, thiếu sức sống. cuộc sống. Cái tài của Xuân Diệu là lồng ba từ “tuổi trẻ”, “mùa xuân” và “tình yêu” vào một ý thơ, không cần đọc nhiều cũng đã thấy đủ ba yếu tố. Xuân Diệu luôn để tranh của mình cân xứng, cái gì cũng có cặp và tỏa ra dấu hiệu của tình yêu tuổi trẻ. Chẳng hạn, ong đi đôi với bướm, nhà thơ đã gợi lên yếu tố tình tứ trong cụm từ “tuần trăng mật” có nghĩa chỉ những giây phút ngọt ngào, hạnh phúc nhất của tình yêu nồng nàn. Hay hoa cũng là một cặp với “đồng xanh”, rất tương hợp, sắc màu rực rỡ của hoa lá kết hợp với màu xanh ngút ngàn của đồng cỏ gợi liên tưởng về một tình yêu dịu dàng, êm đềm, với những cảm xúc vừa cháy bỏng vừa nồng nàn. “Lá cành rung rinh” ta liên tưởng đến những người trẻ tuổi, theo đuổi tình yêu, quyến rũ con người, những con người cuồng nhiệt mà cũng rất cuồng nhiệt trong tình yêu. Nói “Yên anh” thì quá hiển nhiên bởi họ vốn dĩ là một đôi vợ chồng chung thủy, bao đời nay người ta vẫn thường ca ngợi, khía cạnh tình yêu ở đây được bộc lộ qua âm sắc của “bài hát”. tình yêu”, ngọt ngào, sâu lắng và đầy đắm say. Cuối cùng là câu “Còn đây ánh chớp bên hàng mi”, câu thơ gợi cho ta bao liên tưởng thú vị? Ta tạm phân biệt hai trường hợp, nếu người có rèm mi ấy là một thiếu nữ tuổi đôi mươi, thì đó hẳn là người mà Xuân Diệu luôn để ý, luôn khao khát một tình yêu lớn, hay nếu ông là nhà thơ, có lẽ tình yêu của ông là mùa xuân, là cuộc đời tươi trẻ luôn ở trước mặt ông. và có lẽ đúng là tình yêu trong thơ Xuân Diệu không chỉ giới hạn trong tình yêu đôi lứa mà nó còn là tình yêu với thiên nhiên, với cỏ cây, yêu với cuộc sống và tuổi trẻ sâu sắc và sâu sắc. Những tiếc nuối, nhớ nhung của Xuân Diệu ta thường thấy lặp đi lặp lại trong thơ ông, có thể dễ dàng chứng minh nhận định này qua hai câu thơ cuối đoạn “Mỗi sáng thần Vui gõ cửa/Tháng giêng ngon như một đôi môi kề sát". Tôi biết có rất nhiều người, mỗi sáng thức dậy đối với họ là sự chờ đợi mệt mỏi, áp lực công việc và cuộc sống chồng chất, người ta đôi khi chỉ muốn nhắm mắt thêm một chút. Nhưng Xuân Diệu thì khác, ông có một trái tim nồng nàn, say đắm, một niềm tin yêu vào cuộc sống nên với ông mỗi buổi sáng đã là một niềm vui quý giá, và điều cần làm là tận dụng tối đa. tận hưởng nó với nội dung trái tim của bạn. Bên cạnh đó, niềm khao khát mùa xuân mãnh liệt của nhà thơ cũng giống như cách những người trẻ tuổi theo đuổi tình yêu, cũng nồng nàn, say đắm như vậy nên tháng giêng, tháng giêng của mùa xuân cũng hấp dẫn, rạo rực. tràn đầy sức sống như làn môi ngọt ngào và căng mọng của thiếu nữ tuổi đôi mươi.
Như vậy, có thể thấy trong 13 câu thơ đầu, Xuân Diệu vừa bộc lộ cái tôi cá nhân đặc biệt của mình, đồng thời vừa thể hiện niềm khao khát mãnh liệt mùa xuân của tình yêu và tuổi trẻ qua bức tranh cảnh mùa xuân. đầy đủ hương, sắc, vị. Qua đó, tác giả cũng cho chúng ta nhận ra một chân lý rằng, vẻ đẹp của tạo hóa luôn ngự trị xung quanh chúng ta, không phải chốn thần tiên, đất phật nào cả, vấn đề là con người có đủ hay không mà thôi. tình yêu, sự tinh tế để cảm nhận và thưởng thức chúng hay không.
4. Phân tích 13 câu đầu bài Vội vàng của Xuân Diệu, bài văn mẫu số 4 (Chuẩn):
Xuân Diệu là nhà thơ của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ. Đây cũng là ba chủ đề chính trong sự nghiệp thơ ca của ông trước cách mạng tháng Tám. Với mười ba dòng đầu trong bài thơ Vội vàng, 8, thể hiện một cái tôi yêu đời, yêu cuộc sống đến mãnh liệt.
Có thể nói, trong thơ ca trung đại, ít nhà thơ nào dám mạnh dạn khẳng định cái tôi cá nhân, còn trong phong trào Thơ mới, cái tôi của Xuân Diệu bộc lộ một cách rất độc đáo:
"Tôi muốn mặt trời ngừng chiếu sáng
Để màu không phai
Tôi muốn buộc gió
Để cho hương không bay đi.”
Thanh xuân là mùa đẹp nhất trong năm, và tuổi trẻ là quãng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời mỗi người. Bốn dòng thơ ngũ ngôn như lời ca của bài thơ, khẳng định khát vọng chiếm đoạt quyền sáng tạo của nhà thơ. Xuân Diệu muốn ngăn thời gian trôi đi để lưu giữ những khoảnh khắc đẹp nhất, đáng nhớ nhất. Nhà thơ khao khát giữ nắng để “màu không phai”, giữ gió để cuộc sống luôn tràn ngập sắc màu. Khát vọng “tắt nắng”, “buộc gió” thể hiện ý thức làm chủ thiên nhiên của con người. Điều này hợp lý bởi nhà thơ “rất yêu nước non êm ả” (Hoài Thanh) nhưng cũng vô lý và bất khả thi bởi con người không thể chống lại quy luật của tự nhiên. , cách nắm bắt và điều khiển những thứ mong manh, ngắn ngủi, không thể trường tồn mãi mãi. Chúng ta chỉ có thể thực hiện được những mong muốn đó khi có phép màu. Đồng thời, khát vọng này cũng thể hiện thôi thúc sống mãnh liệt và quan niệm về thời gian của ông. Thời gian tuyến tính một chiều, một khi đã đi qua thì không trở lại nên nhà thơ có khát khao được giữ lại nắng gió để tận hưởng vẻ đẹp của đất trời.
Tiểu luận Phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu
Ý thơ như trào dâng cảm xúc ở thể ngũ ngôn đã nói lên khát vọng chân thành và sáng tạo của “nhà thơ mới nhất” (Hoài Thanh). Đặc biệt, sự xuất hiện của chủ thể trữ tình và cái tôi cá nhân đã thoát ra khỏi những hệ thống ước lệ, gò bó của văn học trung đại. Nhân vật trữ tình tuyên bố “tôi” một cách tự tin và dứt khoát. Cái tôi cá nhân ấy không ẩn sau cái “tôi” chung của cộng đồng, dân tộc mà nó đứng riêng đầy khí chất bởi với Xuân Diệu, cái tôi là lẽ sống:
“Ta là Một, Ta là Riêng biệt, Ta là Đầu tiên
Không có người bạn nào có thể ở bên tôi."
(Hy Mã Lạp Sơn)
Sự lặp lại cấu trúc và hình thức ở các câu 1 - 3, câu 2 - 4 cùng với nhịp thơ nhanh, dồn dập đã một lần nữa tô đậm khát vọng giành lấy quyền sáng tạo của Xuân Diệu.
Nếu như các nhà thơ trung đại gửi lòng vào cõi thần tiên thì Xuân Diệu lại phát hiện ra một thiên đường nơi hạ giới trong tầm tay của con người:
"Đây là ong mật và bướm
Đây là những bông hoa của những cánh đồng xanh
Kìa cành lá rung rinh
Của tổ anh đây tình ca.
Và đây là ánh sáng nhấp nháy
Mỗi sớm mai thần Vui Vẻ gõ cửa
Tháng giêng ngon như đôi môi kề môi”.
Những dòng thơ tiếp theo là lời giải thích vì sao nhà thơ muốn “tắt nắng”, “buộc gió”. Con mắt “xanh” và “sáng” của nhà thơ về mùa xuân đã nhận ra vẻ đẹp của cuộc sống và thiên nhiên với thực đơn phong phú. Mùa xuân của bướm, của cỏ cây hoa lá, mùa xuân của muôn loài căng tràn nhựa sống. Mùa xuân được khám phá bởi vẻ đẹp của tháng giêng với những gì tinh túy nhất. Có thể nói đó là một bức tranh đẹp, một khu vườn tình yêu đầy hương sắc của mùa xuân trên mặt đất. Chỉ có Xuân Diệu mới thấy được “tháng mật” của ong bướm, thấy được màu xanh non của cành lá đang “rung rinh”. Tất cả vẻ đẹp căng tràn, tươi mới ấy như được phô bày trước mắt nhà thơ và người đọc qua điệp từ “đây”. Chỉ có nhà thơ ấy mới được ngắm hoa đồng nội và nghe được khúc tình ca của chim én và chim trưởng. Và chỉ có anh mới cảm nhận được: “Tháng giêng ngon như đôi môi kề môi”.
Mùa xuân đẹp và quyến rũ như làn môi thiếu nữ và tháng giêng là tháng đẹp nhất của mùa xuân. Tác giả dùng từ “ngon” để nói lên một niềm khao khát, một cảm giác lạ lùng chỉ có thể có ở Xuân Diệu. Người như một họa sĩ tài hoa đứng trước bức tranh thiên nhiên tươi đẹp để cho ta thấy được vẻ tươi đẹp của mùa xuân. Mùa xuân tươi đẹp và đằm thắm, vạn vật đều có đôi, gắn bó và quấn lấy nhau một cách khăng khít. Đôi lứa gắn bó với nhau trong sự ngọt ngào, nồng nàn, hương quyện với hoa khoe sắc thắm giữa cánh đồng “xanh mướt”. Những cánh chim yến trên bầu trời đang rung rinh trao gửi yêu thương cho nhau mỗi độ xuân về.
Tác giả đã lấy con người làm chuẩn mực cho cái đẹp để những nét vẽ của ông in sâu vào tâm trí người xem. Trời, đảng của thiên nhiên ở ngay trong cuộc đời này, ở ngay trong tầm tay của con người. Đoạn thơ như một khúc du dương mà Xuân Diệu dùng để “đốt cảnh đưa ai về hạ giới” (Hoài Thanh), về nơi trú ngụ của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ. Biện pháp liệt kê làm cho những vẻ đẹp của mùa xuân hiện lên một cách sinh động, chân thực.
Có thể nói, chỉ với Xuân Diệu, vẻ đẹp của mùa xuân mới hiện lên nguyên vẹn và tươi mới như vậy. Cuộc sống giống như một bữa tiệc mà mỗi chúng ta là một vị khách được mời tham dự. Nhà thơ đã “say tình, thiết tha với mùa xuân, bơi trong nắng, dập dờn với bướm và chim” (Thế Lữ). Anh đánh thức mọi giác quan để nếm trải vị ngọt ngào, hương thơm nồng nàn của mùa xuân và sự “ngọt ngào” của cuộc sống. Con mắt tinh tế của Xuân Diệu đã nhìn thấy sức sống tươi mới, sức trẻ khỏe khoắn, xuân sắc nở rộ làm say đắm lòng người. Nhà thơ có ước muốn níu giữ tất cả những “mùi vị” của tình yêu và mùa xuân khi nó đang ở độ thơm nhất.
Xuân Diệu đang đắm chìm trong thế giới thần tiên của nhân gian thì vũ trụ chợt bừng tỉnh:
"Tôi hạnh phúc. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không đợi nắng hè để trở lại mùa xuân.”
Tác giả tự đặt mình vào hai trạng thái: nửa “vui”, nửa “vội vàng” và buồn. Dấu chấm ngăn cách giữa các dòng thơ tạo nên hai câu đặc biệt. Nhà thơ nhận ra vẻ đẹp vô giá của cuộc đời nhưng cũng biết ngay rằng thời gian không chờ đợi. Dấu chấm làm đứt mạch cảm xúc, Xuân Diệu đang ngây ngất trong mùa xuân thiên đường thì chợt nhận ra đời người thật ngắn ngủi, mong manh. Ở trong khu vườn trần gian đầy tình yêu, Xuân Diệu điên cuồng lo sợ những cái đẹp sẽ biến mất, biến mất vào hư vô không để lại chút dư âm nào. Nhà thơ muốn chạy đua với thời gian, hoà mình vào thiên nhiên để trường tồn với thời gian.
Mùa xuân đã trở thành người bạn thân thiết của Xuân Diệu, luôn được Xuân Diệu đón nhận với tình yêu nồng ấm trong bất kỳ hoàn cảnh nào:
“Mùa xuân giữa mùa đông khi mặt trời chiếu sáng
Vào giữa mùa hè khi trời trong sau cơn mưa
Giữa mùa thu khi ngọn gió ban mai thổi
Xoáy màu sắc ngẫu hứng trong những chiếc áo rời.
(Xuân không mùa)
Đây là mùa nâng niu, gieo mầm gặp gỡ, giao hòa của vạn vật và là nơi ươm mầm yêu thương của mỗi cá nhân. Anh quan niệm rằng: “Tình không tuổi xuân không ngày” (Mùa xuân không có mùa) nhưng cuộc vui nào cũng có lúc tàn, hoa nở rồi tàn theo quy luật tự nhiên. Dường như biết trước quy luật khắc nghiệt này, Xuân Diệu “không đợi nắng hè mà xuân về”. Nhà thơ đã nhận ra bước đi vô tình mà nghiệt ngã của thời gian nên không đợi một cái gì qua đi mới thấy nuối tiếc. .
Ca ngợi vẻ đẹp của mùa xuân qua mười ba dòng đầu bài thơ “Vội vàng”, Xuân Diệu khẳng định trên trần gian không có nơi nào đẹp hơn khu vườn trần gian. Những vần thơ của ông là “nguồn sống chưa từng có ở nước non êm ả này” (Hoài Thanh). Được sống là niềm hạnh phúc, là khát khao lớn nhất của mỗi chúng ta, vì vậy cần phải biết trân trọng cuộc sống và có thái độ sống tích cực.
5. Phân tích 13 câu đầu bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu, văn mẫu số 5 (Chuẩn)
Xuân Diệu là một nghệ sĩ đa tài - viết văn, làm thơ, phê bình, nghiên cứu văn học v.v... nhưng để lại nhiều thành tựu nổi bật nhất vẫn là thơ ca. Xuân Diệu là một trong những nhà thơ xuất sắc của phong trào Thơ mới với những vần thơ thiết tha tình đời, thiết tha cuộc đời, luôn thể hiện một khát vọng và một quan niệm nhân sinh “vô bờ bến và trọn vẹn”. mới sinh. Và có lẽ, đặc điểm ấy trong thơ Xuân Diệu được thể hiện rất rõ qua mười ba dòng đầu của bài thơ “Vội vàng”.
Mở đầu bài thơ bằng bốn câu thơ được viết theo thể thơ năm chữ, tác giả Xuân Diệu đã thể hiện niềm khát khao cháy bỏng được gìn giữ những vẻ đẹp của cuộc sống và thiên nhiên.
Tôi muốn mặt trời ngừng chiếu sáng
Để màu không phai
Tôi muốn buộc gió
Để hương không bay đi
Bằng nghệ thuật điệp ngữ “tôi muốn” được lặp lại hai lần, cùng với thể thơ năm chữ, nhịp điệu nhanh, dứt khoát, bốn câu thơ đã thể hiện niềm khao khát, khát vọng cháy bỏng của Xuân Diệu. Mong ước của nhà thơ là “tắt nắng”, “buộc gió” để giữ lại hương sắc cho đời. Ước muốn “tắt nắng”, “buộc gió” của nhà thơ có vẻ vô lý bởi nắng, gió là lẽ tự nhiên, con người làm sao có thể níu kéo được, nhưng với Xuân Diệu thì thật hoàn hảo. Điều đó hoàn toàn có thể, bởi với ông, nắng và gió là biểu tượng cho những vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc sống. Mong ước đó của nhà thơ suy cho cùng cũng là mong muốn lưu giữ hương sắc, giữ mãi những vẻ đẹp tự nhiên của cuộc sống để chúng không bị phai nhạt theo thời gian.
Hướng dẫn lập dàn ý và Phân tích 13 dòng đầu bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu
Nếu như bốn dòng đầu của bài thơ, tác giả thể hiện niềm khát khao mãnh liệt, cháy bỏng của mình thì ở bảy câu thơ tiếp theo, tác giả vẽ ra trước mắt người đọc “bức tranh thiên đường nơi hạ giới”.
Của ong bướm đây là tháng của mật
Đây là những bông hoa của những cánh đồng xanh
Kìa cành lá rung rinh
Của tổ anh đây tình ca.
Và đây là ánh sáng nhấp nháy
Cụm từ “đây nó” được lặp lại năm lần như một lời mời, như thể mọi thứ đang hiển hiện, đang hiển thị, đang mời gọi. Và rồi, đằng sau thông điệp ấy, từng hình ảnh, từng mảng màu của bức tranh thiên nhiên, của “bữa tiệc thế tục” của thế giới gọi nhau hiện ra. Bức tranh ấy được tạo nên bởi những hình ảnh vui tươi, tràn đầy sức sống tươi mới, yêu đời với bao niềm vui hạnh phúc, đó là “con bướm” là “tuần trăng mật”, là “cánh đồng xanh”. rhi”, “là nhành lụa rung rinh”, là “anh tổ” với bản tình ca. Tất cả những hình ảnh ấy hòa quyện với nhau tạo nên một bức tranh thiên nhiên tràn đầy sức sống, tất cả như tràn đầy sức sống và sự sống. Đồng thời, đó còn là một bức tranh xuân với sự kết hợp hài hòa giữa hình ảnh, màu sắc và âm thanh, dường như mỗi hình ảnh, mỗi sự vật trong bức tranh ấy đều thể hiện sự yêu thương, gắn bó với thế giới.Bức tranh xuân như một “khu vườn tình yêu”, khu vườn tình yêu, đầy ngọt ngào và hạnh phúc.Đặc biệt, trong bài thơ, tác giả không chỉ nhìn thiên nhiên bằng mắt, lắng nghe âm thanh bằng tai, mà bức tranh thiên nhiên đó còn được tác giả cảm nhận đầy vị giác qua những hình ảnh so sánh độc đáo.
Tháng giêng ngon như đôi môi kề
Xuân Diệu đã nhân cách hóa thiên nhiên, coi thiên nhiên như người tình để ông yêu và được yêu. Hình ảnh so sánh táo bạo, độc đáo này đã một lần nữa cho chúng ta thấy tình yêu và sự gắn bó của nhà thơ với thiên nhiên, với cuộc sống. Như vậy, chỉ với bảy câu thơ, Xuân Diệu đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp ngay giữa nhân gian và với Xuân Diệu, thiên đường không ở đâu xa mà ở ngay trên mặt đất này. Và đây cũng chính là quan niệm sống mới của Xuân Diệu. Đồng thời cũng góp phần cắt nghĩa vì sao trong bốn câu thơ mở đầu của bài thơ Xuân Diệu lại có những khao khát, khát khao cháy bỏng, mãnh liệt đến thế.
Trước vẻ đẹp “tiên thiên hạ giới” dường như nhà thơ không giấu nổi lòng mình mà phải thốt lên rằng.
Tôi hạnh phúc nhưng vội vàng một nửa
Tôi không đợi nắng hè để đón xuân về.
Câu thơ như bị ngắt thành hai mảng đứt quãng, cái tôi của nhà thơ sung sướng trước vẻ đẹp của thiên nhiên và cuộc sống, nhưng niềm sung sướng ấy nhanh chóng bị bỏ lại bởi một khoảng ngừng với cảm giác “vội vàng”. một nửa'. Vội vã, lo lắng bởi có lẽ hơn ai hết Xuân Diệu cảm nhận được dòng chảy của thời gian, sự mong manh, ngắn ngủi của kiếp người nên phải sống vội vàng để tận hưởng vẻ đẹp nơi đây.
Tóm lại, mười ba dòng đầu của bài thơ “Vội vàng” đã đem đến cho chúng ta một quan niệm sống mới của Xuân Diệu. Đối với Xuân Diệu, trời không ở đâu xa, mà nó hiện hữu ngay trên mặt đất, ngay giữa nhân gian.
-------HẾT-------
Vội vàng là bài thơ quan trọng trong chương trình Ngữ Văn lớp 11, để củng cố kiến thức bài học, bên cạnh bài học Phân tích 13 dòng đầu bài thơ “Vội vàng” , bạn có thể tham khảo: Vẻ đẹp của bức tranh cuộc sống trong bài thơ Vội vàng Triết lý nhân sinh trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu, Phân tích khổ thơ đầu bài thơ Vội vàng để làm sáng tỏ nhận định trên Phân tích vẻ đẹp thiên nhiên trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu
Bình luận